MỨT DÂU TẰM.
Dâu tằm nằm trong nhóm trái cây giàu dinh dưỡng nhất, gần tới phẩm cấp thảo dược, có tác dụng bổ thận, bổ máu, lợi tiểu, tăng miễn dịch, tăng sinh dịch vị… trồng phổ biến ở Việt Nam, giá rẻ, thu hái quanh năm mặc dầu thời điểm rộ cuối xuân đầu hè, nhưng người Việt chưa trân quý.
Nấu mứt dâu tằm là cách bảo quản tốt nhất, dễ dùng nhất nếu bạn không làm rượu dâu tằm. Thời Pháp ông bà tôi có doanh nghiệp chế biến rượu dâu, đóng chai như vang Pháp, phân phối toàn quốc, công thức rượu tôi không chia sẻ, chỉ giới thiệu mứt dâu để thêm vào sữa chua cùi dừa [công thức sữa chua cùi dừa có 2 bài trong album] các bạn nấu đúng như thế này sẽ thấy trên thị trường không có mứt nào sánh được. Nếu kinh doanh thì bạn phải tăng lượng đường để bảo quản.
CÔNG THỨC cho 1 lọ này:
- 3,5 lạng dâu chín cây sau khi đã lựa kỹ. Rửa sạch cát, loại bỏ trái nát, sau khi sạch cát, ngâm dâu 5’ trong nước có pha thuốc tím Kali Pemanganat [mua dễ dàng ở hiệu thuốc và rất rẻ]. Chú ý không ngâm dâu bằng nước muối.
- Vớt dâu ra khăn vải sạch thấm khô. Khăn bếp sẽ dính màu tím đen của dâu, gấp khăn lại, cho vào bát, đổ dấm trắng vào cho ẩm khăn, ngâm 30 phút, sau đó xả nước giặt bình thường là sạch.
- 1 lạng đường mía hữu cơ của Thái Lan ngọt sắc cho 3,5 lạng dâu, đây là nhạt tối đa, nếu làm nhạt nữa không bảo quản được.
- 1/8 trái chanh yên to vắt lấy nước hoặc thái lát. Chanh xanh chua gắt lại hơi đắng không dùng.
- Bột quế một chút xíu cỡ hạt đậu xanh.
- Muối hồng Himalaya chút xíu cỡ hạt đậu xanh.
- Lọ thủy tinh nắp vặn hấp khử trùng.
CÁCH LÀM:
- Dùng nồi thủy tinh, nồi gốm hay inox để nấu. Không dùng nhôm, đồng.
- Dâu để nguyên trái, thấm ráo nước đổ vào nồi, cho đường, nước chanh hoặc cả lát chanh yên, nấu lửa vừa, sôi riu riu, hớt bọt, thêm muối hồng, thêm bột quế, sên cho tới khi mứt cô lại thì bắc ra.
- Cô chừng nào là vừa? Bạn múc 1 thìa đổ ra đĩa, để 30 giây cho nguội bớt rồi dùng 1 ngón tay kéo nó, nếu nó sun lại là được, nếu ngón tay trơn chuội qua là còn quá lỏng, cần cô thêm. Mức độ đặc như vậy sẽ giúp bảo quản mứt dâu ít đường được 6 tháng trong tủ lạnh. Mẻ này tôi ít, để dùng vào món sữa chua nên tôi không cô đặc mà làm loãng hơn.
- Nhất thiết đun sôi lọ + nắp + phễu rót + muôi để khử trùng.
- Cho mứt vào lọ khi còn đang nóng, nguội, đậy kín.
Ảnh comment rõ thấy màu thật, tiếc là các bạn đã không lưu ảnh comment của bài nên giờ tôi đăng lại chỉ có ảnh chính.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Dâu tằm nằm trong nhóm trái cây giàu dinh dưỡng nhất, gần tới phẩm cấp thảo dược, có tác dụng bổ thận, bổ máu, lợi tiểu, tăng miễn dịch, tăng sinh dịch vị… trồng phổ biến ở Việt Nam, giá rẻ, thu hái quanh năm mặc dầu thời điểm rộ cuối xuân đầu hè, nhưng người Việt chưa trân quý.
Nấu mứt dâu tằm là cách bảo quản tốt nhất, dễ dùng nhất nếu bạn không làm rượu dâu tằm. Thời Pháp ông bà tôi có doanh nghiệp chế biến rượu dâu, đóng chai như vang Pháp, phân phối toàn quốc, công thức rượu tôi không chia sẻ, chỉ giới thiệu mứt dâu để thêm vào sữa chua cùi dừa [công thức sữa chua cùi dừa có 2 bài trong album] các bạn nấu đúng như thế này sẽ thấy trên thị trường không có mứt nào sánh được. Nếu kinh doanh thì bạn phải tăng lượng đường để bảo quản.
CÔNG THỨC cho 1 lọ này:
- 3,5 lạng dâu chín cây sau khi đã lựa kỹ. Rửa sạch cát, loại bỏ trái nát, sau khi sạch cát, ngâm dâu 5’ trong nước có pha thuốc tím Kali Pemanganat [mua dễ dàng ở hiệu thuốc và rất rẻ]. Chú ý không ngâm dâu bằng nước muối.
- Vớt dâu ra khăn vải sạch thấm khô. Khăn bếp sẽ dính màu tím đen của dâu, gấp khăn lại, cho vào bát, đổ dấm trắng vào cho ẩm khăn, ngâm 30 phút, sau đó xả nước giặt bình thường là sạch.
- 1 lạng đường mía hữu cơ của Thái Lan ngọt sắc cho 3,5 lạng dâu, đây là nhạt tối đa, nếu làm nhạt nữa không bảo quản được.
- 1/8 trái chanh yên to vắt lấy nước hoặc thái lát. Chanh xanh chua gắt lại hơi đắng không dùng.
- Bột quế một chút xíu cỡ hạt đậu xanh.
- Muối hồng Himalaya chút xíu cỡ hạt đậu xanh.
- Lọ thủy tinh nắp vặn hấp khử trùng.
CÁCH LÀM:
- Dùng nồi thủy tinh, nồi gốm hay inox để nấu. Không dùng nhôm, đồng.
- Dâu để nguyên trái, thấm ráo nước đổ vào nồi, cho đường, nước chanh hoặc cả lát chanh yên, nấu lửa vừa, sôi riu riu, hớt bọt, thêm muối hồng, thêm bột quế, sên cho tới khi mứt cô lại thì bắc ra.
- Cô chừng nào là vừa? Bạn múc 1 thìa đổ ra đĩa, để 30 giây cho nguội bớt rồi dùng 1 ngón tay kéo nó, nếu nó sun lại là được, nếu ngón tay trơn chuội qua là còn quá lỏng, cần cô thêm. Mức độ đặc như vậy sẽ giúp bảo quản mứt dâu ít đường được 6 tháng trong tủ lạnh. Mẻ này tôi ít, để dùng vào món sữa chua nên tôi không cô đặc mà làm loãng hơn.
- Nhất thiết đun sôi lọ + nắp + phễu rót + muôi để khử trùng.
- Cho mứt vào lọ khi còn đang nóng, nguội, đậy kín.
Ảnh comment rõ thấy màu thật, tiếc là các bạn đã không lưu ảnh comment của bài nên giờ tôi đăng lại chỉ có ảnh chính.
Nguồn FB Cô Liên Hương
HUYỀN TRANG ĐƯỜNG TAM TẠNG & BỘ SÁCH “ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ”
Cư sỹ Liên Hương viết cho lứa tuổi thiếu niên.
------------------------
Thế kỷ thứ VII sau công nguyên, nước Tùy, đời Văn đế Dương Kiên, năm Khai Hoàng thứ 16 [Tây lịch 596] có Pháp sư Huyền Trang, tên tục là Trần Vỹ sinh trong gia đình quan đầu tỉnh ở Lạc Dương, huyện Câu Thi, tỉnh Hà Nam. Trần Huyền Trang là bề tôi của vua Ðường Thái Tông [Lý Thế Dân] nên người ta gọi ông là Đường Huyền Trang và bởi ông đi thỉnh ba tạng Kinh điển Phật giáo nên gọi ông là Đường Tam Tạng. Năm Trinh Quán thứ 2 (628), Huyền Trang 32 tuổi, quyết định lên đường đi Tây Vực. Vào thời đó, những người muốn đi Tây Vực đều phải được sự cho phép của Hoàng đế. Ông hai lần dâng biểu, vua Đường đều không chấp nhận. Không giống trong truyện “Tây Du Ký”, Đường Tăng trước khi lên đường được vua nhận làm huynh đệ, ban cho chiếc bát vàng, áo cà sa quý và bày tiệc rượu tiễn tận cửa thành – Huyền Trang một mình lên đường mà không hề được ân chuẩn.
Hành trình khởi từ Đông Độ sang Tây Vực gần 50 ngàn dặm được Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký”. Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường 17 năm, qua 110 quốc gia lớn nhỏ, tổng cộng 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 628, đến 645 và ông đã mang về:
- 150 viên xá lợi [tinh cốt của Như Lai].
- 2 tượng Phật bằng gỗ Đàn tô ngân, cao 4 thước
- 3 tượng Phật bằng gỗ Đàn hương, cao 3 thước 5, 2 thước 9, 2 thước 3.
- 657 Phạn bản gồm 224 Kinh, 192 Luận cùng trước tác Tiểu Thừa và Yoga.
- Một số bảo vật khác phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết.
Trong thời gian 13 năm lưu trú tại Tây Vực, Huyền Trang thăm viếng hầu hết các di tích, đặc biệt nhất là Ngài học trong 6 năm ở Tu viện Nalanda, một học viện nổi tiếng. Tất cả những Kinh điển của Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ-đà của Hin-du giáo, sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v. v… đều tập trung tại đây do Pháp sư Silabhadra chủ trì. Tu viện Nalanda có trên 10 ngàn môn sinh, sau 6 năm học tập, Huyền Trang trở thành một trong ba người giỏi nhất. Sau 13 năm ở Ấn Độ, ông có ý trở về. Giới Nhật vương biết chuyện đã tổ chức một buỗi tiễn đưa long trọng có mặt của 18 vị quốc vương. Sau đó, Giới Nhật vương vẫn không muốn Huyền Trang ra đi, liên tục mở tiệc khoản đãi, còn có ý định mời ông làm Quốc sư nhưng Huyền Trang nhất định từ chối trở về.
Không chỉ đạo hạnh và uyên thâm Phật pháp, Huyền Trang còn là một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhất là một nhà phiên dịch giỏi, đi đến đâu, Ngài cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình địa lý, phong thổ, động thực vật... biên soạn thành bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký”, gồm 12 quyển, ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v… của những xứ đã đi qua. Ngày nay, những tài liệu của Ngài để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ vì các ghi chép rất chính xác. Nhờ bản đồ trong “ Đại Đường Tây Vực ký” mà các học giả, những nhà khảo cổ người Âu mới tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18, cho đến nay thì bốn Thánh địa căn bản của đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi thành đạo, thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch đã rõ ràng. Hiện nay, Nhật Bản đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cách đây trên 2.500 năm về trước, tất cả đều nhờ vào công đức của Huyền Trang đã để lại cho hậu thế một tấm bản đồ cách đây 1.375 năm. Sau này, các tu sỹ Ki-tô giáo với tầm tri thức học giả, chu du trên các tàu buôn, tàu chiến khắp thế giới cũng ghi lại địa lý, phong thổ, thực vật và vẽ bản đồ, các di sản đó được bảo quản tốt và còn hữu ích trong thế giới hôm nay, kể cả về các quần đảo như Hoàng Sa, Trường Sa (*). Họ ghi lại không phải bởi họ làm gián điệp như cách một số kẻ miệt thị, mà đối với họ, trong mọi thứ đều ẩn tàng Vinh Quang Thiêng Liêng.
Ngày 25 tháng Giêng năm 645, Huyền Trang về đến Trường An. Sử chép rằng, dân chúng kéo ra đón chật đường. Lúc này, Đường Thái Tông mới mời Huyền Trang đến, khuyên hoàn tục và muốn dùng các kiến thức của ông cho việc bang giao, nhưng ông từ chối. Suốt 19 năm, từ 645 đến 664, Ngài và 200 cộng sự, dịch được tất cả 75 bộ, khoảng 1.335 quyển từ tiếng Phạn qua Hán tự, ông còn dịch bộ “Ðạo Đức Kinh” và “Ðại Thừa Khởi Tín Luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ bách khoa thư “Ðại Ðường Tây Vực ký” 12 tập. Công việc dịch thuật có một không hai này, đã làm phong phú thêm 11.000 từ mới cho kho tàng Hán tự vốn đã vô cùng đặc sắc.
Trưa ngày 05/02/664, Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, hưởng dương 69 tuổi. Ngày 14/4 thi hài ngài được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Hôm cử hành tang lễ có một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận tiễn đưa. An táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang quanh mộ phần. Từ xưa đến nay chưa từng có vị đế vương hay hiền triết nào được ngưỡng mộ bằng, Ngài đã đi vào lịch sử và văn hóa thật vinh quang.
Tranh cổ vẽ Huyền Trang vạn dặm thỉnh Kinh với chiếc gùi kệ sách độc đáo của https://t.cn/A6OSprRy
(*) Nhà nghiên cứu Lê Thành Khê năm 1958 đã viết: Trong số đó, có các nhà hàng hải Pháp xuống tàu từ cảng La Rochelle, ngày 07/3/1568 cùng với các nhà bác học dòng Tên (các tu sỹ) đi Viễn Đông đã đến Hoàng Sa.
Bản đồ Đông Nam Á do người phương Tây vẽ năm 1606 ghi bằng tiếng Latin, Pracel (Hoàng Sa) thuộc xứ Champa.
Bản đồ của Robert Sayer do nhà xuất bản Luân đôn in năm 1791 ghi Paracel Bank (quần đảo Hoàng Sa) vẽ theo Dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam (Cochin China Đàng Trong) năm 1764.
Bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn [Hinter-Indien] ghi rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc xứ Annam.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Cư sỹ Liên Hương viết cho lứa tuổi thiếu niên.
------------------------
Thế kỷ thứ VII sau công nguyên, nước Tùy, đời Văn đế Dương Kiên, năm Khai Hoàng thứ 16 [Tây lịch 596] có Pháp sư Huyền Trang, tên tục là Trần Vỹ sinh trong gia đình quan đầu tỉnh ở Lạc Dương, huyện Câu Thi, tỉnh Hà Nam. Trần Huyền Trang là bề tôi của vua Ðường Thái Tông [Lý Thế Dân] nên người ta gọi ông là Đường Huyền Trang và bởi ông đi thỉnh ba tạng Kinh điển Phật giáo nên gọi ông là Đường Tam Tạng. Năm Trinh Quán thứ 2 (628), Huyền Trang 32 tuổi, quyết định lên đường đi Tây Vực. Vào thời đó, những người muốn đi Tây Vực đều phải được sự cho phép của Hoàng đế. Ông hai lần dâng biểu, vua Đường đều không chấp nhận. Không giống trong truyện “Tây Du Ký”, Đường Tăng trước khi lên đường được vua nhận làm huynh đệ, ban cho chiếc bát vàng, áo cà sa quý và bày tiệc rượu tiễn tận cửa thành – Huyền Trang một mình lên đường mà không hề được ân chuẩn.
Hành trình khởi từ Đông Độ sang Tây Vực gần 50 ngàn dặm được Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký”. Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường 17 năm, qua 110 quốc gia lớn nhỏ, tổng cộng 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 628, đến 645 và ông đã mang về:
- 150 viên xá lợi [tinh cốt của Như Lai].
- 2 tượng Phật bằng gỗ Đàn tô ngân, cao 4 thước
- 3 tượng Phật bằng gỗ Đàn hương, cao 3 thước 5, 2 thước 9, 2 thước 3.
- 657 Phạn bản gồm 224 Kinh, 192 Luận cùng trước tác Tiểu Thừa và Yoga.
- Một số bảo vật khác phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết.
Trong thời gian 13 năm lưu trú tại Tây Vực, Huyền Trang thăm viếng hầu hết các di tích, đặc biệt nhất là Ngài học trong 6 năm ở Tu viện Nalanda, một học viện nổi tiếng. Tất cả những Kinh điển của Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ-đà của Hin-du giáo, sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v. v… đều tập trung tại đây do Pháp sư Silabhadra chủ trì. Tu viện Nalanda có trên 10 ngàn môn sinh, sau 6 năm học tập, Huyền Trang trở thành một trong ba người giỏi nhất. Sau 13 năm ở Ấn Độ, ông có ý trở về. Giới Nhật vương biết chuyện đã tổ chức một buỗi tiễn đưa long trọng có mặt của 18 vị quốc vương. Sau đó, Giới Nhật vương vẫn không muốn Huyền Trang ra đi, liên tục mở tiệc khoản đãi, còn có ý định mời ông làm Quốc sư nhưng Huyền Trang nhất định từ chối trở về.
Không chỉ đạo hạnh và uyên thâm Phật pháp, Huyền Trang còn là một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhất là một nhà phiên dịch giỏi, đi đến đâu, Ngài cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình địa lý, phong thổ, động thực vật... biên soạn thành bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký”, gồm 12 quyển, ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v… của những xứ đã đi qua. Ngày nay, những tài liệu của Ngài để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ vì các ghi chép rất chính xác. Nhờ bản đồ trong “ Đại Đường Tây Vực ký” mà các học giả, những nhà khảo cổ người Âu mới tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18, cho đến nay thì bốn Thánh địa căn bản của đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi thành đạo, thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch đã rõ ràng. Hiện nay, Nhật Bản đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cách đây trên 2.500 năm về trước, tất cả đều nhờ vào công đức của Huyền Trang đã để lại cho hậu thế một tấm bản đồ cách đây 1.375 năm. Sau này, các tu sỹ Ki-tô giáo với tầm tri thức học giả, chu du trên các tàu buôn, tàu chiến khắp thế giới cũng ghi lại địa lý, phong thổ, thực vật và vẽ bản đồ, các di sản đó được bảo quản tốt và còn hữu ích trong thế giới hôm nay, kể cả về các quần đảo như Hoàng Sa, Trường Sa (*). Họ ghi lại không phải bởi họ làm gián điệp như cách một số kẻ miệt thị, mà đối với họ, trong mọi thứ đều ẩn tàng Vinh Quang Thiêng Liêng.
Ngày 25 tháng Giêng năm 645, Huyền Trang về đến Trường An. Sử chép rằng, dân chúng kéo ra đón chật đường. Lúc này, Đường Thái Tông mới mời Huyền Trang đến, khuyên hoàn tục và muốn dùng các kiến thức của ông cho việc bang giao, nhưng ông từ chối. Suốt 19 năm, từ 645 đến 664, Ngài và 200 cộng sự, dịch được tất cả 75 bộ, khoảng 1.335 quyển từ tiếng Phạn qua Hán tự, ông còn dịch bộ “Ðạo Đức Kinh” và “Ðại Thừa Khởi Tín Luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ bách khoa thư “Ðại Ðường Tây Vực ký” 12 tập. Công việc dịch thuật có một không hai này, đã làm phong phú thêm 11.000 từ mới cho kho tàng Hán tự vốn đã vô cùng đặc sắc.
Trưa ngày 05/02/664, Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, hưởng dương 69 tuổi. Ngày 14/4 thi hài ngài được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Hôm cử hành tang lễ có một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận tiễn đưa. An táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang quanh mộ phần. Từ xưa đến nay chưa từng có vị đế vương hay hiền triết nào được ngưỡng mộ bằng, Ngài đã đi vào lịch sử và văn hóa thật vinh quang.
Tranh cổ vẽ Huyền Trang vạn dặm thỉnh Kinh với chiếc gùi kệ sách độc đáo của https://t.cn/A6OSprRy
(*) Nhà nghiên cứu Lê Thành Khê năm 1958 đã viết: Trong số đó, có các nhà hàng hải Pháp xuống tàu từ cảng La Rochelle, ngày 07/3/1568 cùng với các nhà bác học dòng Tên (các tu sỹ) đi Viễn Đông đã đến Hoàng Sa.
Bản đồ Đông Nam Á do người phương Tây vẽ năm 1606 ghi bằng tiếng Latin, Pracel (Hoàng Sa) thuộc xứ Champa.
Bản đồ của Robert Sayer do nhà xuất bản Luân đôn in năm 1791 ghi Paracel Bank (quần đảo Hoàng Sa) vẽ theo Dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam (Cochin China Đàng Trong) năm 1764.
Bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn [Hinter-Indien] ghi rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc xứ Annam.
Nguồn FB Cô Liên Hương
NƯỚC XUÝT THỰC VẬT CHO BÉ ĂN CHAY hoặc ĂN MẶN
* Trước khi cho trẻ làm quen với gia cầm thì cần làm quen với thực vật rồi tới cá.
* Nấu nước dùng không được vội, không được mở lửa lớn quá để tránh đục. Trong khi đung không cần quấy.
* Nguyên liệu thuần chay vô cùng phong phú, mùa nào thức đó, rẻ và chế biến rất nhanh:
- Tảo bẹ kombu vừa rẻ vừa bổ dưỡng lại làm nước có vị ngọt kiểu mỳ chính. Không bao giờ rửa kombu, chỉ dùng khăn ẩm lau cả 2 mặt lá là cho vào nồi. Mỗi 1 lít nước cần 1 lá kombu khoảng 1 gang tay. Kombu có ưu điểm là không tanh như các tảo khác. Lưu ý, không ninh kombu mà chỉ đun lửa trung vừa sôi khoảng 10-15’. Nếu đun ít quá thì vị ngọt sẽ không tiết ra, còn đun kỹ quá thì tảo sẽ nẫu và nước dùng lại không ngon. Khi kombu nổi và nở to thì vớt ra trước còn các rau củ khác ninh tiếp.
- Boa rô là một cây họ hành nhưng không phải là hành hay tỏi tây. Nó cho vị ngọt đặc biệt giống mỳ chính, không hăng và hầu như ăn ý với tất cả các loại nước dùng.
- Cần tây bẹ để nguyên cọng chỉ cắt khúc 3 cho ngắn vừa nồi. Đừng dùng nhiều cần tây bẹ bởi nó sẽ át hương của các thứ khác.
- Củ ngưu báng cọ bằng bàn chải dưới vòi nước rồi cắt khúc cỡ 2 cm
- Kỷ tử khô vài hạt, nó là thực phẩm tần số cao.
- Rau thơm gia vị tùy mùa, tùy khẩu vị của bạn, để nguyên cây: cần tây, mùi tây, mùi ta, thì là, hương thảo... không dùng nhiều.
- Đậu bắp còn gọi là mướp tây [đã có phát tán GMO nên phải mua hàng hữu cơ]
- Su su gọt vỏ chẻ tư, rất ngọt nước
- Hoa chớm nở và lá non của bồ công anh thêm một chút nếu có
- Hoa của bí ngô và các loại bí
- Lá và cuộng súp lơ
- Vỏ cà rốt
- Vỏ củ hành tây đừng vứt đi mà cho vào xuýt rất thơm
- Vỏ chanh yên sau khi vắt nước cho vào xuýt rất thơm
- Mía 2-3 khẩu để nguyên khối
- Tỏi tây chọn loại nhỏ, để nguyên cây
- Nụ actiso bỏ lớp ngoài lấy lõi
- Củ hồi ở miền nam gọi là củ “phê-nôn” chẻ đôi
- Lá nho non
- Phần gốc già của măng tây
- Lá su hào [củ su hào nấu bị chua không ngon]
- Khoai tây bi để nguyên vỏ, cọ rửa bằng bàn chải
- Củ cải trắng nguyên vỏ cắt khúc hoặc chẻ đôi
- Tiêu sọ 2-4 hạt, để nguyên hạt không xay
- Lá nguyệt quế khô
* Nhóm thực vật nên nướng qua rồi mới ninh sẽ thơm hơn:
- Hành tây củ, trắng hoặc tía, mua loại nhỏ, nướng sơ nguyên củ, bóc lớp cháy đen, rồi chẻ đôi
- Cà rốt nướng sơ sẽ thơm hơn. Nướng xong lấy khăn ẩm lau bớt cháy nếu nướng quá tay.
- Ớt chuông vàng và đỏ [nướng, lột vỏ để hết mùi hăng và biến thành mùi thơm gần giống hạnh nhân]
- Tỏi ta 1-2 tép nướng lên
* Nhóm thực vật cảnh giác ô nhiễm GMO:
- Đậu Hà lan nguyên trái Non-GMO
- Ngô cắt khoanh hoặc ngô bao tử Non-GMO
- Phần cuống của trái bí/bầu các loại. Nếu bí ngòi thì cẩn thận bị GMO.
- Nấm đông cô, nấm mỡ hay nấm rơm nuôi trồng bằng chất liệu Non-GMO
* Tôi liệt kê nhiều loại, tùy mùa vụ, tùy điều kiện, bạn chỉ cần 5-7 loại là đã có nồi nước dùng rất thơm ngon, giàu khoáng vi lượng.
* Sau khi sơ chế, xếp nguyên liệu vào nồi, chế nước lạnh, đun sôi, hớt bọt, hạ lửa riu riu 20’, riêng kombu vớt ra trước, vỏ chanh yên cho sau cùng đun khoảng 5'. Trút qua rây để bỏ bã.
* Khi nước dùng nguội, bạn có thể đông băng để dành được 3 tháng. Bảo quản lạnh thì 3 ngày vẫn thơm. Nhưng tôi không khuyên bạn để dành mà dùng ngay trong ngày.
* Nấm cao đạm và ngon nhưng là thức ăn âm tính, chỉ nên dùng hạn chế. Trẻ con nhà tôi lớn rồi mới ăn nấm chứ không ăn dặm.
* Nước dùng này không cần thêm muối vì trong nguyên liệu đã có muối rồi. Nước dùng có thể quấy cháo, xay sinh tố hoặc dùng để uống.
_____
Nguồn FB Cô Liên Hương
* Trước khi cho trẻ làm quen với gia cầm thì cần làm quen với thực vật rồi tới cá.
* Nấu nước dùng không được vội, không được mở lửa lớn quá để tránh đục. Trong khi đung không cần quấy.
* Nguyên liệu thuần chay vô cùng phong phú, mùa nào thức đó, rẻ và chế biến rất nhanh:
- Tảo bẹ kombu vừa rẻ vừa bổ dưỡng lại làm nước có vị ngọt kiểu mỳ chính. Không bao giờ rửa kombu, chỉ dùng khăn ẩm lau cả 2 mặt lá là cho vào nồi. Mỗi 1 lít nước cần 1 lá kombu khoảng 1 gang tay. Kombu có ưu điểm là không tanh như các tảo khác. Lưu ý, không ninh kombu mà chỉ đun lửa trung vừa sôi khoảng 10-15’. Nếu đun ít quá thì vị ngọt sẽ không tiết ra, còn đun kỹ quá thì tảo sẽ nẫu và nước dùng lại không ngon. Khi kombu nổi và nở to thì vớt ra trước còn các rau củ khác ninh tiếp.
- Boa rô là một cây họ hành nhưng không phải là hành hay tỏi tây. Nó cho vị ngọt đặc biệt giống mỳ chính, không hăng và hầu như ăn ý với tất cả các loại nước dùng.
- Cần tây bẹ để nguyên cọng chỉ cắt khúc 3 cho ngắn vừa nồi. Đừng dùng nhiều cần tây bẹ bởi nó sẽ át hương của các thứ khác.
- Củ ngưu báng cọ bằng bàn chải dưới vòi nước rồi cắt khúc cỡ 2 cm
- Kỷ tử khô vài hạt, nó là thực phẩm tần số cao.
- Rau thơm gia vị tùy mùa, tùy khẩu vị của bạn, để nguyên cây: cần tây, mùi tây, mùi ta, thì là, hương thảo... không dùng nhiều.
- Đậu bắp còn gọi là mướp tây [đã có phát tán GMO nên phải mua hàng hữu cơ]
- Su su gọt vỏ chẻ tư, rất ngọt nước
- Hoa chớm nở và lá non của bồ công anh thêm một chút nếu có
- Hoa của bí ngô và các loại bí
- Lá và cuộng súp lơ
- Vỏ cà rốt
- Vỏ củ hành tây đừng vứt đi mà cho vào xuýt rất thơm
- Vỏ chanh yên sau khi vắt nước cho vào xuýt rất thơm
- Mía 2-3 khẩu để nguyên khối
- Tỏi tây chọn loại nhỏ, để nguyên cây
- Nụ actiso bỏ lớp ngoài lấy lõi
- Củ hồi ở miền nam gọi là củ “phê-nôn” chẻ đôi
- Lá nho non
- Phần gốc già của măng tây
- Lá su hào [củ su hào nấu bị chua không ngon]
- Khoai tây bi để nguyên vỏ, cọ rửa bằng bàn chải
- Củ cải trắng nguyên vỏ cắt khúc hoặc chẻ đôi
- Tiêu sọ 2-4 hạt, để nguyên hạt không xay
- Lá nguyệt quế khô
* Nhóm thực vật nên nướng qua rồi mới ninh sẽ thơm hơn:
- Hành tây củ, trắng hoặc tía, mua loại nhỏ, nướng sơ nguyên củ, bóc lớp cháy đen, rồi chẻ đôi
- Cà rốt nướng sơ sẽ thơm hơn. Nướng xong lấy khăn ẩm lau bớt cháy nếu nướng quá tay.
- Ớt chuông vàng và đỏ [nướng, lột vỏ để hết mùi hăng và biến thành mùi thơm gần giống hạnh nhân]
- Tỏi ta 1-2 tép nướng lên
* Nhóm thực vật cảnh giác ô nhiễm GMO:
- Đậu Hà lan nguyên trái Non-GMO
- Ngô cắt khoanh hoặc ngô bao tử Non-GMO
- Phần cuống của trái bí/bầu các loại. Nếu bí ngòi thì cẩn thận bị GMO.
- Nấm đông cô, nấm mỡ hay nấm rơm nuôi trồng bằng chất liệu Non-GMO
* Tôi liệt kê nhiều loại, tùy mùa vụ, tùy điều kiện, bạn chỉ cần 5-7 loại là đã có nồi nước dùng rất thơm ngon, giàu khoáng vi lượng.
* Sau khi sơ chế, xếp nguyên liệu vào nồi, chế nước lạnh, đun sôi, hớt bọt, hạ lửa riu riu 20’, riêng kombu vớt ra trước, vỏ chanh yên cho sau cùng đun khoảng 5'. Trút qua rây để bỏ bã.
* Khi nước dùng nguội, bạn có thể đông băng để dành được 3 tháng. Bảo quản lạnh thì 3 ngày vẫn thơm. Nhưng tôi không khuyên bạn để dành mà dùng ngay trong ngày.
* Nấm cao đạm và ngon nhưng là thức ăn âm tính, chỉ nên dùng hạn chế. Trẻ con nhà tôi lớn rồi mới ăn nấm chứ không ăn dặm.
* Nước dùng này không cần thêm muối vì trong nguyên liệu đã có muối rồi. Nước dùng có thể quấy cháo, xay sinh tố hoặc dùng để uống.
_____
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐