CHỦ ĐỀ GIỚI HẠN.
LỜI KHẤN HỒI HƯỚNG THIỆN PHƯỚC BỐ THÍ.
Vì nhiều bạn có nhu cầu nên mình đăng lên tường, bạn nào đã có cuốn “Chúng ta đã có thân người quý báu” giở trang 46, tập 1. Phước thiện bố thí có đặc điểm là có thể hồi hướng/chia sẻ/biếu tặng tới khắp các cõi. Theo Kinh “Địa Tạng Bồ-tát bản nguyện”, phẩm thứ 7: khi hồi hướng thì ta được 6/7 phần công đức đó, đối tượng được hồi hướng chỉ nhận được 1/7 phần công đức mà thôi [tha lực chỉ là phần hỗ trợ, nghiệp quả mỗi chúng sinh phải tự thọ báo]. Việc hồi hướng công đức cho gia tiên, thân quyến đang ở các cõi nặng trược là rất cần thiết bởi vì chúng sinh Địa ngục, Ngã quỷ… không có khả năng nhận thức & tạo lập công đức được nữa nên rất cần được trợ giúp để nhanh chóng lên được các cõi trên. Hồi hướng công đức là một nhắc nhở làm phát triển phẩm chất từ bi, lòng xót thương và thực hành chia sẻ, vốn là thuộc tính của chúng sinh hy hữu được trở thành Người.
Bố thí để tạo phước thiện là thí chủ dùng của cải tiền bạc, sự hiểu biết của mình đem ban bố cho người khác với thiện tâm, mong mỏi sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến cho chúng sinh khác. Sự bố thí như vậy tạo ra được thiện phước [năng lượng tích cực]. Có thiện phước rồi, chúng ta khấn nguyện hồi hướng vào ngày mồng 1, hoặc mồng 8, hoặc 15 âm lịch trước sự chứng minh của Tam Bảo.
Cần thành tâm hồi hướng và có lời khấn nguyện như sau đã dịch ra tiếng Việt. Phần … thí chủ tự ghi [tên, tuổi, ngày, tháng, địa chỉ và sự việc]. Lời khấn trích trong Tirokuṇṇapetavtthu, Khuddaka Nikāya, bộ Petavatthu [Tiểu Bộ Kinh – Phật giáo Nguyên thủy], tỳ kheo Dhammarakkhita Bhikkhu dịch Việt ngữ năm 2001. Rakkhitasīla Antevāsika hiệu đính. Trích đoạn này giúp các thí chủ thực hành chia sẻ thiện phước tới khắp cõi.
--------------
* Thí chủ … [ghi họ tên, tuổi, địa chỉ nơi ở] đã tạo phước thiện bố thí … [trình bày việc đã làm]. Hôm nay, ngày … tháng … năm … , thí chủ y lời Phật dạy, thành tâm hồi hướng phần phước thiện thanh cao này.
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả chư thiên, chư thiên hộ trì bản mệnh, chư thiên ở tại nơi đây, chư thiên ở trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh thành, chư thiên ở trong nước, chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất, chư thiên ở cội cây, chư thiên ở trên hư không, chư thiên các cõi trời… Xin chư thiên hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu dài – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến thân nhân quá vãng: tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bè bạn … từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là … [tên chân linh vừa quá vãng hoặc chân linh đang nhớ đến trong ngày làm phước thiện này] đã quá vãng. Xin chư hương linh hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy. Cầu mong quý vị giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm chia phần phước thiện này đến những thân nhân hiện tiền: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu, bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu, đồng nghiệp, xóm giềng … [tên, địa chỉ]. Mong quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thân tâm được an lạc, tiến hóa trong mọi thiện pháp. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến chúng sinh trong địa ngục, các hàng atula, các hàng ngã quỷ, các loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngục Yāma. Cầu mong chư vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sinh nơi cõi thiện giới cho được an lạc. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả 4 loài chúng sinh trong tam giới 31 cõi. Cầu mong tất cả hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc, được tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lành trên con đường giải thoát khỏi tử sinh luân hồi. – Lành thay!
* Tất cả các thiện phước chúng con đã làm, đang làm và sẽ làm, chúng con đều hồi hướng như vậy.
--------------
Các bạn tham khảo phần cuối bài trong link dẫn để tìm tài liệu đọc về hồi hướng. https://t.cn/A6OoueG0
Nguồn FB Cô Liên Hương
LỜI KHẤN HỒI HƯỚNG THIỆN PHƯỚC BỐ THÍ.
Vì nhiều bạn có nhu cầu nên mình đăng lên tường, bạn nào đã có cuốn “Chúng ta đã có thân người quý báu” giở trang 46, tập 1. Phước thiện bố thí có đặc điểm là có thể hồi hướng/chia sẻ/biếu tặng tới khắp các cõi. Theo Kinh “Địa Tạng Bồ-tát bản nguyện”, phẩm thứ 7: khi hồi hướng thì ta được 6/7 phần công đức đó, đối tượng được hồi hướng chỉ nhận được 1/7 phần công đức mà thôi [tha lực chỉ là phần hỗ trợ, nghiệp quả mỗi chúng sinh phải tự thọ báo]. Việc hồi hướng công đức cho gia tiên, thân quyến đang ở các cõi nặng trược là rất cần thiết bởi vì chúng sinh Địa ngục, Ngã quỷ… không có khả năng nhận thức & tạo lập công đức được nữa nên rất cần được trợ giúp để nhanh chóng lên được các cõi trên. Hồi hướng công đức là một nhắc nhở làm phát triển phẩm chất từ bi, lòng xót thương và thực hành chia sẻ, vốn là thuộc tính của chúng sinh hy hữu được trở thành Người.
Bố thí để tạo phước thiện là thí chủ dùng của cải tiền bạc, sự hiểu biết của mình đem ban bố cho người khác với thiện tâm, mong mỏi sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến cho chúng sinh khác. Sự bố thí như vậy tạo ra được thiện phước [năng lượng tích cực]. Có thiện phước rồi, chúng ta khấn nguyện hồi hướng vào ngày mồng 1, hoặc mồng 8, hoặc 15 âm lịch trước sự chứng minh của Tam Bảo.
Cần thành tâm hồi hướng và có lời khấn nguyện như sau đã dịch ra tiếng Việt. Phần … thí chủ tự ghi [tên, tuổi, ngày, tháng, địa chỉ và sự việc]. Lời khấn trích trong Tirokuṇṇapetavtthu, Khuddaka Nikāya, bộ Petavatthu [Tiểu Bộ Kinh – Phật giáo Nguyên thủy], tỳ kheo Dhammarakkhita Bhikkhu dịch Việt ngữ năm 2001. Rakkhitasīla Antevāsika hiệu đính. Trích đoạn này giúp các thí chủ thực hành chia sẻ thiện phước tới khắp cõi.
--------------
* Thí chủ … [ghi họ tên, tuổi, địa chỉ nơi ở] đã tạo phước thiện bố thí … [trình bày việc đã làm]. Hôm nay, ngày … tháng … năm … , thí chủ y lời Phật dạy, thành tâm hồi hướng phần phước thiện thanh cao này.
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả chư thiên, chư thiên hộ trì bản mệnh, chư thiên ở tại nơi đây, chư thiên ở trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh thành, chư thiên ở trong nước, chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất, chư thiên ở cội cây, chư thiên ở trên hư không, chư thiên các cõi trời… Xin chư thiên hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu dài – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến thân nhân quá vãng: tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bè bạn … từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là … [tên chân linh vừa quá vãng hoặc chân linh đang nhớ đến trong ngày làm phước thiện này] đã quá vãng. Xin chư hương linh hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy. Cầu mong quý vị giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm chia phần phước thiện này đến những thân nhân hiện tiền: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu, bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu, đồng nghiệp, xóm giềng … [tên, địa chỉ]. Mong quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thân tâm được an lạc, tiến hóa trong mọi thiện pháp. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến chúng sinh trong địa ngục, các hàng atula, các hàng ngã quỷ, các loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngục Yāma. Cầu mong chư vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sinh nơi cõi thiện giới cho được an lạc. – Lành thay!
* Thí chủ thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả 4 loài chúng sinh trong tam giới 31 cõi. Cầu mong tất cả hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc, được tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lành trên con đường giải thoát khỏi tử sinh luân hồi. – Lành thay!
* Tất cả các thiện phước chúng con đã làm, đang làm và sẽ làm, chúng con đều hồi hướng như vậy.
--------------
Các bạn tham khảo phần cuối bài trong link dẫn để tìm tài liệu đọc về hồi hướng. https://t.cn/A6OoueG0
Nguồn FB Cô Liên Hương
LINH THOẠI BỒ ĐỀ ĐẠT MA
Trúc Thiên
Tổ Ðạt Ma cỡi sóng qua Ðông Ðộ.
Tổ Ðạt Ma vào đất Ngụy, đường đường như một kiếm khách chốn bải tần.
Tổ Ðạt Ma “đơn dao trực nhập” triều đình Lương Võ Ðế nói pháp như chuyển sóng.
Tổ Ðạt Ma chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá chùa Thiếu Lâm.
Tổ Ðạt Ma kỳ diệu ban phép an tâm.
Tổ Ðạt Ma cỡi bè lau về Thiên Trức.
Tổ Ðạt Ma xách một chiếc dép phi hành trên ngọn Thông Lãnh.
Tổ Ðạt Ma... và Tổ Ðạt Ma...
Bao nhiêu là câu chuyện truyền kỳ kết hào quang đưa nhà sư mắt biếc đất Hồ (Bích nhãn Hồ tăng) vào Huyền Sử.
oOo
Từ Tung sơn, sừng sững bên vách đá chùa Thiếu Lâm, bóng Người ngả dài suốt lịch sử đông phương như một tượng trưng thuần túy của Ðạo. Ngót mười lăm thế kỉ nay, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói ; chốn già lam còn nghe vang dội bước Người đi.
Người đi qua không gian hiển hiện như chưa-từng-có.
Người đi qua thời gian, hiển hiện như chưa-từng-không.
Người đi thẳng vào sự thực, dẫm nát dư luận.
Người đi thẳng vào lòng người, không mặt nạ.
oOo
Ðối vởi Người, sự thực là sự thực, không được trả giá. Trả giá với sự thực là kí kết với ma. Con người đang đi xuống quá rồi , thế đạo đang nghiêng ngửa quá rồi giữa sắc tướng ; cần cấp thời chận đứng cái đà tuột giốc ; cần vươn mình lên mở lấy một con-đường-không-đường , cần nhảy thẳng vào tâm điểm của cuộc sống, của giác ngộ. Căn bịnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi đao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lí tối hậu: hoát nhiên vô thánh.
Từ huyền sử, Người trang nghiêm tô lại khung đời bằng nét đạo tâm linh.
Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Ðạo nào khác đều tìm thánh mà bỏ phàm, đều ham ngộ mà ghét mê, đều bỏ đời mà cầu đạo, đều tự trói buộc mình :
“Bất dữ phàm chánh đồng triền
Siêu nhiên danh chi viết tổ”
(Chẳng cùng phàm thánh sánh vai
Vượt lên mới gọi là tổ)
Cho nên bất cứ phương diện nào của cuộc sống cũng là đạo. Bắt nguồn tự vách núi Tung Sơn, đạo sống Thiền thấm nhuần khắp giải đất Á Ðông, nung sanh lực cho mấy ngàn năm văn hóa.
Cho nên uống trà cũng là đạo, trà đạo : trà Thiền nhất vị. Võ thuật cũng là đạo, nhu đạo : đạo lấy mềm thắng cứng. Cắm hoa, viết chữ, bắn cung cũng là đạo : đạo luyện phép vô tâm, để cho sự vật tự nó sắp xếp lấy một cách viên mãn nhứt.
Cho đến xách nước, bửa củi cũng là đạo :
Bửa củi là diệu dụng
Xách nước ấy thần thông
(Bàng Uẩn)
Mà rồi im lặng cũng là đạo nốt :
Ði cũng Thiền, ngồi cũng Thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên
(Huyền Giác)
oOo
Sau khi Tổ viên tịch, “vấn đề” giải thoát được nêu lên với tất cả tinh thành của hàng đệ tử. Người ta tự hỏi nhau : “Tổ truyền gì cho Huệ Khả ? Bí quyết của pháp Phật là gì ? Huyết mạch của đạo Thiền là gì ? Thực chất của giác ngộ là gì ? v.v...” Bao nhiêu là câu hỏì nóng hổi đặt dài theo bước chân người cầu đạo suốt mười lăm thế kỉ nay, và có thể đúc kết lại trong câu hỏi độc đáo sau đây của phép tu Thiền :
“Như hà thị Tổ Sư tây lai ý ?”
(ý nghĩa tối yếu của việc Tổ Sư qua Tàu là gì ?)
Người ta mang câu hỏi sống chết ấy đến gõ cửa các Thiền sư. Ðáp lại tấc lòng tinh thành ấy, người ta nhận được những câu trả lời quái dị như sau:
Sư Hương Lâm nói : ngồi lâu thấm mệt ;
Sư Cửu Phong nói : một tấc lông rùa nặng chín cân ;
Sư Triệu Châu nói : cây bách ở trước sân, v.v...
oOo
Lối nói ngược ngạo đó gọi là công án. Trong số 1700 công án Thiền, riêng về câu hỏi trên chiếm đến trên trăm câu, thế đủ biết Tổ Ðạt Ma luôn luôn có mặt ở khắp nẻo Thiền. Nên một ông sư Phù Tang nói :
“Người nào lấy hư không làm giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy núi Tu Di làm bút, viết được năm chữ “Tổ Sư tây lai ý” thì sãi tôi xin trải tấm tọa cụ ra mà đảnh lễ dưới chân.”
oOo
Sở dĩ vậy vì người nào hiểu được, chẳng hạn, câu nói “cây bách ở trước sân” (đình tiền bách thọ tử) của Triệu Châu là cùng một lúc hiểu tất cả câu nói khác, tất cả đạo Thiền, tất cả pháp Phật. Một công án là một hột bồ đề, xâu chung với vô số hột khác thành một chuỗi bồ đề vô tận; cho nên đập bể một hột bồ đề là toàn xâu chuỗi bung ra; nắm được một công án là nắm trọn, là thông suốt tâm Phật ý Tổ.
oOo
Tuy nhiên, muốn hiểu được “ý nghĩa của Tổ Sư qua Tàu” không phải suy luận mà được, mà cần phải sống chết với nó, mang nó trong thịt da như Tôn Hành Giả mang cái niệt kim cô quanh đầu. Khi Tôn vê tròn xong công quả thì cái niệt đau khổ kia bỗng chốc hóa thành không; cũng vậy, khi người tìm đạo “quán” được một công án thì công án ấy, cũng như vô số công án khác, bỗng hóa thành vô nghĩa, thừa thải, như một trò đùa rẻ tiền.
oOo
Dầu vậy, suốt thời gian chưa quán được thì công án là một mũi tên oan nghiệt bắn thẳng vào mạng sống, nhổ không ra mà muốn chết quách cũng không chết được Ðó là tâm trạng cùng quẫn, thai nghén cho biến cố ngộ đạo. Tâm trạng ấy được ví như tâm trạng của người leo lên cây cao, miệng cắn vào một cành cây, hai tay buông thỏng giữa hư không, hai chơn không vịn được vào đâu hết. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên : “ý của Tổ Sư qua Tàu là gì ?”. Người trên cây không trả lời thì không được mà trả lời thì rơi chết hốt xương.
(theo vô môn quan)
Người kể câu chuyện cổ quái trên đặt câu hỏi : Chính trong hoàn cảnh ấy, chính người ấy, phải làm sao ?
oOo
“Phải làm sao ?”
Ðó là bí thuật của Thiền Ðông Ðộ, mà Đạt Ma là Sơ Tổ : một linh thoại của muôn đời.
(Phật tử Mỹ đánh máy lại từ tạp chí Tư Tưởng Đại Học Vạn Hạnh Số 2 & 3)
Nguồn FB A Citta Kha
Trúc Thiên
Tổ Ðạt Ma cỡi sóng qua Ðông Ðộ.
Tổ Ðạt Ma vào đất Ngụy, đường đường như một kiếm khách chốn bải tần.
Tổ Ðạt Ma “đơn dao trực nhập” triều đình Lương Võ Ðế nói pháp như chuyển sóng.
Tổ Ðạt Ma chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá chùa Thiếu Lâm.
Tổ Ðạt Ma kỳ diệu ban phép an tâm.
Tổ Ðạt Ma cỡi bè lau về Thiên Trức.
Tổ Ðạt Ma xách một chiếc dép phi hành trên ngọn Thông Lãnh.
Tổ Ðạt Ma... và Tổ Ðạt Ma...
Bao nhiêu là câu chuyện truyền kỳ kết hào quang đưa nhà sư mắt biếc đất Hồ (Bích nhãn Hồ tăng) vào Huyền Sử.
oOo
Từ Tung sơn, sừng sững bên vách đá chùa Thiếu Lâm, bóng Người ngả dài suốt lịch sử đông phương như một tượng trưng thuần túy của Ðạo. Ngót mười lăm thế kỉ nay, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói ; chốn già lam còn nghe vang dội bước Người đi.
Người đi qua không gian hiển hiện như chưa-từng-có.
Người đi qua thời gian, hiển hiện như chưa-từng-không.
Người đi thẳng vào sự thực, dẫm nát dư luận.
Người đi thẳng vào lòng người, không mặt nạ.
oOo
Ðối vởi Người, sự thực là sự thực, không được trả giá. Trả giá với sự thực là kí kết với ma. Con người đang đi xuống quá rồi , thế đạo đang nghiêng ngửa quá rồi giữa sắc tướng ; cần cấp thời chận đứng cái đà tuột giốc ; cần vươn mình lên mở lấy một con-đường-không-đường , cần nhảy thẳng vào tâm điểm của cuộc sống, của giác ngộ. Căn bịnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi đao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lí tối hậu: hoát nhiên vô thánh.
Từ huyền sử, Người trang nghiêm tô lại khung đời bằng nét đạo tâm linh.
Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Ðạo nào khác đều tìm thánh mà bỏ phàm, đều ham ngộ mà ghét mê, đều bỏ đời mà cầu đạo, đều tự trói buộc mình :
“Bất dữ phàm chánh đồng triền
Siêu nhiên danh chi viết tổ”
(Chẳng cùng phàm thánh sánh vai
Vượt lên mới gọi là tổ)
Cho nên bất cứ phương diện nào của cuộc sống cũng là đạo. Bắt nguồn tự vách núi Tung Sơn, đạo sống Thiền thấm nhuần khắp giải đất Á Ðông, nung sanh lực cho mấy ngàn năm văn hóa.
Cho nên uống trà cũng là đạo, trà đạo : trà Thiền nhất vị. Võ thuật cũng là đạo, nhu đạo : đạo lấy mềm thắng cứng. Cắm hoa, viết chữ, bắn cung cũng là đạo : đạo luyện phép vô tâm, để cho sự vật tự nó sắp xếp lấy một cách viên mãn nhứt.
Cho đến xách nước, bửa củi cũng là đạo :
Bửa củi là diệu dụng
Xách nước ấy thần thông
(Bàng Uẩn)
Mà rồi im lặng cũng là đạo nốt :
Ði cũng Thiền, ngồi cũng Thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên
(Huyền Giác)
oOo
Sau khi Tổ viên tịch, “vấn đề” giải thoát được nêu lên với tất cả tinh thành của hàng đệ tử. Người ta tự hỏi nhau : “Tổ truyền gì cho Huệ Khả ? Bí quyết của pháp Phật là gì ? Huyết mạch của đạo Thiền là gì ? Thực chất của giác ngộ là gì ? v.v...” Bao nhiêu là câu hỏì nóng hổi đặt dài theo bước chân người cầu đạo suốt mười lăm thế kỉ nay, và có thể đúc kết lại trong câu hỏi độc đáo sau đây của phép tu Thiền :
“Như hà thị Tổ Sư tây lai ý ?”
(ý nghĩa tối yếu của việc Tổ Sư qua Tàu là gì ?)
Người ta mang câu hỏi sống chết ấy đến gõ cửa các Thiền sư. Ðáp lại tấc lòng tinh thành ấy, người ta nhận được những câu trả lời quái dị như sau:
Sư Hương Lâm nói : ngồi lâu thấm mệt ;
Sư Cửu Phong nói : một tấc lông rùa nặng chín cân ;
Sư Triệu Châu nói : cây bách ở trước sân, v.v...
oOo
Lối nói ngược ngạo đó gọi là công án. Trong số 1700 công án Thiền, riêng về câu hỏi trên chiếm đến trên trăm câu, thế đủ biết Tổ Ðạt Ma luôn luôn có mặt ở khắp nẻo Thiền. Nên một ông sư Phù Tang nói :
“Người nào lấy hư không làm giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy núi Tu Di làm bút, viết được năm chữ “Tổ Sư tây lai ý” thì sãi tôi xin trải tấm tọa cụ ra mà đảnh lễ dưới chân.”
oOo
Sở dĩ vậy vì người nào hiểu được, chẳng hạn, câu nói “cây bách ở trước sân” (đình tiền bách thọ tử) của Triệu Châu là cùng một lúc hiểu tất cả câu nói khác, tất cả đạo Thiền, tất cả pháp Phật. Một công án là một hột bồ đề, xâu chung với vô số hột khác thành một chuỗi bồ đề vô tận; cho nên đập bể một hột bồ đề là toàn xâu chuỗi bung ra; nắm được một công án là nắm trọn, là thông suốt tâm Phật ý Tổ.
oOo
Tuy nhiên, muốn hiểu được “ý nghĩa của Tổ Sư qua Tàu” không phải suy luận mà được, mà cần phải sống chết với nó, mang nó trong thịt da như Tôn Hành Giả mang cái niệt kim cô quanh đầu. Khi Tôn vê tròn xong công quả thì cái niệt đau khổ kia bỗng chốc hóa thành không; cũng vậy, khi người tìm đạo “quán” được một công án thì công án ấy, cũng như vô số công án khác, bỗng hóa thành vô nghĩa, thừa thải, như một trò đùa rẻ tiền.
oOo
Dầu vậy, suốt thời gian chưa quán được thì công án là một mũi tên oan nghiệt bắn thẳng vào mạng sống, nhổ không ra mà muốn chết quách cũng không chết được Ðó là tâm trạng cùng quẫn, thai nghén cho biến cố ngộ đạo. Tâm trạng ấy được ví như tâm trạng của người leo lên cây cao, miệng cắn vào một cành cây, hai tay buông thỏng giữa hư không, hai chơn không vịn được vào đâu hết. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên : “ý của Tổ Sư qua Tàu là gì ?”. Người trên cây không trả lời thì không được mà trả lời thì rơi chết hốt xương.
(theo vô môn quan)
Người kể câu chuyện cổ quái trên đặt câu hỏi : Chính trong hoàn cảnh ấy, chính người ấy, phải làm sao ?
oOo
“Phải làm sao ?”
Ðó là bí thuật của Thiền Ðông Ðộ, mà Đạt Ma là Sơ Tổ : một linh thoại của muôn đời.
(Phật tử Mỹ đánh máy lại từ tạp chí Tư Tưởng Đại Học Vạn Hạnh Số 2 & 3)
Nguồn FB A Citta Kha
Lạc ngâm tương dùng trong các chùa ăn chay rất tiện, hàm lượng đạm cao, giàu ma-giê, lành tính, tuyệt đối không gây chướng bụng, thực sự là thực dưỡng. Món này tôi học từ chư tăng Đài Loan cách đây hai mươi năm, khi đó tôi sang Đài Bắc thỉnh Đại Tạng được Viện Phật học mời cơm chay có món lạc khai vị, tôi thấy hay nên hỏi cách, rồi mua nguyên liệu tại đó mang về nhà làm. Về sau, để tăng hàm lượng ma-giê, tôi thêm tương mật hoa dừa hữu cơ của Việt Nam.
Bà ngoại tôi nói rằng tôi có năng khiếu sư phạm từ nhỏ, tôi không nói vòng vèo như trẻ con khác mà mạch lạc, có lớp lang, dễ hiểu, bởi vậy, từ khi dùng FB cách đây 8 năm, tôi cố gắng chia sẻ nhiều thứ và các bạn đã kinh doanh rất thành công, trung bình, sau khi tôi đăng bài thì 6 tháng tới 1 năm là có sản phẩm ra thị trường: sữa hạt, nến sáp, kombucha F2 với trái cây, muối vừng đa hạt, nước tẩy rửa bồ hòn, chè dưỡng nhan, sữa chua cùi dừa, chiết hương hoa bằng dầu, cháo dinh dưỡng thuần chay, muối tiêu rau thơm, tự ép hạt lấy dầu thay dầu tinh luyện độc hại, pha tinh dầu để xoa bóp… Món lạc thực dưỡng này, để thúc các bạn nhanh hơn, tôi cân đong tỷ mỷ, mong sao các bạn kinh doanh được ngay, giảm thiểu việc ăn lạc không ngâm và lạc gia nhiệt cao không tốt cho sức khoẻ. Lạc là họ đậu, rất nhiều dinh dưỡng nhưng để tận dụng được dinh dưỡng của lạc thì phải ngâm hạt, bạn nào chưa hiểu tầm quan trọng của việc ngâm hạt thì đọc lại bài cũ có bảng ngâm hạt.
NGUYÊN LIỆU:
- Lạc nhân hữu cơ khô 500g. Rửa, ngâm và thay nước nhiều lần trong 8-10 giờ. Nước cuối ngâm bằng nước muối loãng nhạt hơn nước biển. Xóc ráo. Lạc trắng và lạc đỏ cho ra thành phẩm có vị hơi khác, lạc đỏ chát hơn.
- Nước sạch đã khử bớt can xi 800ml, chia làm 3 phần: 500-150-150.
- Hoa hồi khô hữu cơ 2 bông RẤT NHỎ.
- Tương nành đen hữu cơ 60ml. Xem ảnh chai tương nành đen Đài Loan tôi comment. Đây là loại đậu nành đen nhánh như đậu đen chứ không phải đậu đen cũng không phải nành trắng ủ lâu làm thành đen.
- Đường dừa hữu cơ 3 thìa cà phê đầy vun. Xin đọc kỹ mục CHÚ Ý.
- Tương mật hoa dừa hữu cơ 10ml, nếu không có tương mật hoa dừa thì phải tăng lượng đường dừa lên một chút. Xem ảnh chai tương dừa tôi comment. Tương dừa giàu ma-giê, 1 khẩu phần 4ml có tới 5mg ma-giê.
- Hoa muối 1 thìa cà phê vơi. Cùng cỡ thìa đong đường dừa.
NẤU:
- Cho 500ml nước đã khử can xi vào nồi, cho tất cả các nguyên liệu vào, đun sôi lửa trung rồi hạ dưới trung, ninh 20 phút. Trong quá trình ninh phải canh hớt bọt dù chỉ có tý xíu bọt. Thêm nước 150ml, ninh tiếp, rồi thêm nước 150ml ninh tiếp cho đủ 20 phút. Tôi ninh số 2/6 số bếp.
- Chú ý, không cho tất cả 800ml nước ngay từ đầu vì như vậy hạt lạc kém đậm đà, phải thêm từng phần nhỏ để nước luôn xâm xấp.
- Trong khi nấu thì khử trùng lọ bằng cách hấp hoặc hơ lửa nến.
- Ninh xong vớt hoa hồi ra, để nguội, đóng từng lọ nhỏ, nước xấp mặt. Bảo quản tủ mát, 2 ngày sau ăn ngon, giữ được 6 tuần hoặc hơn. Khi ăn gần hết lại nấu mẻ mới.
CHÚ Ý:
- Tôi đong 3 thìa cà phê đầy vun đường dừa khi cho vào muỗng lường thể tích thì đầy muỗng 60ml, khi cân được 28,4 gam. Đường dừa nhạt hơn đường mía. Đường mía vị ngọt sắc, đanh, đường dừa xốp tan nhẹ trên lưỡi, vị ngọt êm ả.
- Đừng cho nhiều tương mật hoa dừa bởi nước sẽ rất đen.
- Lạc ngâm tương bùi, béo, giòn, không bở, không cứng, không mặn, không ngọt, thoảng nhẹ hương hoa hồi và có vị umami đầy đặn trên lưỡi. Nếu bạn không vớt hoa hồi ra mà vẫn ngâm cùng lạc thì hương sẽ đậm hơn. Ăn cùng cơm, cháo, bánh đúc, thêm vào nhân bánh bao… đều ngon và lành, dùng được thường xuyên hằng ngày bởi dầu trong lạc không bị gia nhiệt cao biến tính gây ung thư như khi rang và lạc đã ngâm khử các chất kháng dinh dưỡng.
Bạn nào cần hỏi comment ngay bài này. Trong khi làm món, nếu có khúc mắc gì cũng comment ở bài này.
Thế là đã có món sữa lạc, chè lạc, cơm lạc bóc nõn, lạc rang kiểu bà ngoại, lạc ngâm tương – tất cả đều xử lý ngâm.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Bà ngoại tôi nói rằng tôi có năng khiếu sư phạm từ nhỏ, tôi không nói vòng vèo như trẻ con khác mà mạch lạc, có lớp lang, dễ hiểu, bởi vậy, từ khi dùng FB cách đây 8 năm, tôi cố gắng chia sẻ nhiều thứ và các bạn đã kinh doanh rất thành công, trung bình, sau khi tôi đăng bài thì 6 tháng tới 1 năm là có sản phẩm ra thị trường: sữa hạt, nến sáp, kombucha F2 với trái cây, muối vừng đa hạt, nước tẩy rửa bồ hòn, chè dưỡng nhan, sữa chua cùi dừa, chiết hương hoa bằng dầu, cháo dinh dưỡng thuần chay, muối tiêu rau thơm, tự ép hạt lấy dầu thay dầu tinh luyện độc hại, pha tinh dầu để xoa bóp… Món lạc thực dưỡng này, để thúc các bạn nhanh hơn, tôi cân đong tỷ mỷ, mong sao các bạn kinh doanh được ngay, giảm thiểu việc ăn lạc không ngâm và lạc gia nhiệt cao không tốt cho sức khoẻ. Lạc là họ đậu, rất nhiều dinh dưỡng nhưng để tận dụng được dinh dưỡng của lạc thì phải ngâm hạt, bạn nào chưa hiểu tầm quan trọng của việc ngâm hạt thì đọc lại bài cũ có bảng ngâm hạt.
NGUYÊN LIỆU:
- Lạc nhân hữu cơ khô 500g. Rửa, ngâm và thay nước nhiều lần trong 8-10 giờ. Nước cuối ngâm bằng nước muối loãng nhạt hơn nước biển. Xóc ráo. Lạc trắng và lạc đỏ cho ra thành phẩm có vị hơi khác, lạc đỏ chát hơn.
- Nước sạch đã khử bớt can xi 800ml, chia làm 3 phần: 500-150-150.
- Hoa hồi khô hữu cơ 2 bông RẤT NHỎ.
- Tương nành đen hữu cơ 60ml. Xem ảnh chai tương nành đen Đài Loan tôi comment. Đây là loại đậu nành đen nhánh như đậu đen chứ không phải đậu đen cũng không phải nành trắng ủ lâu làm thành đen.
- Đường dừa hữu cơ 3 thìa cà phê đầy vun. Xin đọc kỹ mục CHÚ Ý.
- Tương mật hoa dừa hữu cơ 10ml, nếu không có tương mật hoa dừa thì phải tăng lượng đường dừa lên một chút. Xem ảnh chai tương dừa tôi comment. Tương dừa giàu ma-giê, 1 khẩu phần 4ml có tới 5mg ma-giê.
- Hoa muối 1 thìa cà phê vơi. Cùng cỡ thìa đong đường dừa.
NẤU:
- Cho 500ml nước đã khử can xi vào nồi, cho tất cả các nguyên liệu vào, đun sôi lửa trung rồi hạ dưới trung, ninh 20 phút. Trong quá trình ninh phải canh hớt bọt dù chỉ có tý xíu bọt. Thêm nước 150ml, ninh tiếp, rồi thêm nước 150ml ninh tiếp cho đủ 20 phút. Tôi ninh số 2/6 số bếp.
- Chú ý, không cho tất cả 800ml nước ngay từ đầu vì như vậy hạt lạc kém đậm đà, phải thêm từng phần nhỏ để nước luôn xâm xấp.
- Trong khi nấu thì khử trùng lọ bằng cách hấp hoặc hơ lửa nến.
- Ninh xong vớt hoa hồi ra, để nguội, đóng từng lọ nhỏ, nước xấp mặt. Bảo quản tủ mát, 2 ngày sau ăn ngon, giữ được 6 tuần hoặc hơn. Khi ăn gần hết lại nấu mẻ mới.
CHÚ Ý:
- Tôi đong 3 thìa cà phê đầy vun đường dừa khi cho vào muỗng lường thể tích thì đầy muỗng 60ml, khi cân được 28,4 gam. Đường dừa nhạt hơn đường mía. Đường mía vị ngọt sắc, đanh, đường dừa xốp tan nhẹ trên lưỡi, vị ngọt êm ả.
- Đừng cho nhiều tương mật hoa dừa bởi nước sẽ rất đen.
- Lạc ngâm tương bùi, béo, giòn, không bở, không cứng, không mặn, không ngọt, thoảng nhẹ hương hoa hồi và có vị umami đầy đặn trên lưỡi. Nếu bạn không vớt hoa hồi ra mà vẫn ngâm cùng lạc thì hương sẽ đậm hơn. Ăn cùng cơm, cháo, bánh đúc, thêm vào nhân bánh bao… đều ngon và lành, dùng được thường xuyên hằng ngày bởi dầu trong lạc không bị gia nhiệt cao biến tính gây ung thư như khi rang và lạc đã ngâm khử các chất kháng dinh dưỡng.
Bạn nào cần hỏi comment ngay bài này. Trong khi làm món, nếu có khúc mắc gì cũng comment ở bài này.
Thế là đã có món sữa lạc, chè lạc, cơm lạc bóc nõn, lạc rang kiểu bà ngoại, lạc ngâm tương – tất cả đều xử lý ngâm.
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐