SỰ TỬ – đây là phần thứ 2 để hiểu biết về chu trình cận tử và chuyển sinh. Tôi tóm tắt bản dịch từ tiếng Pháp của Thầy tôi.
Con người cấu tạo từ nhiều Thể lồng vào nhau nên không có cái chết đồng thời mà từng Thể chết cách riêng. Các chất cấu tạo nên các Thể sẽ phân rã ở cõi giới tương ứng với rung động của nó, hoàn trả về vũ trụ. Mỗi thể hư hoại có Hạt Lưu Tính được từ trường Trame de Vie bảo tồn để chuyển sinh.
Trong cái chết bình thường, vào giai đoạn cận tử, sinh lực Prana từ từ thu rút về tim rồi theo kênh Sushumna thứ cấp [Sushumna secondaire], không phải kênh thẳng mà hai kênh xoáy, nhập vào não thất thứ ba [3 è Venticute - xem ảnh comment], rồi vào điểm giữa của đường khớp đỉnh sọ [vị trí luân xa 7 hay huyệt Bách Hội] rời khỏi thể Xác. Tây y thì coi đây là chết, nhưng sự thực đây mới chỉ là bắt đầu quy trình chết.
Bạn giở lại phần về thể Vía trong bài 1: lúc chúng ta ngủ, thể Vía có thể ra khỏi thể Xác và thể Phách, để lại hai thể đó trên giường [khi đó Phách vẫn cấp dưỡng Prana cho Xác]. Khi chết không giống lúc ngủ, Vía ra khỏi thể Xác nhưng nó ‘quấn theo’ thể Phách, để lại thể Xác không còn được cấp dưỡng sinh khí Prana.
Khi thể Phách vừa ra khỏi thể Xác, có thể thấy nó giống một đám sương mù màu tím hoặc trắng xanh xám giống hình hài người, nhiều người chụp được và lầm tưởng là Linh Hồn. Khi Prana không còn trong thể Xác thì liên kết tế bào bắt đầu mất đi, nhưng sự sống nội môi của bản thân mỗi tế bào riêng rẽ vẫn tiếp tục trong một khoảng thời gian ngắn nữa do tế bào dự trữ được sinh khí Prana ngay trong nhân tế bào.
Khi thể Phách vừa rời bỏ Xác thì nó chưa phân rã hết mà thường trôi nổi bên trên tử thi, dân gian gọi là ‘hồn ma bóng quế’, có thể xuất hiện trước mặt những người có liên hệ mật thiết dưới dạng một hình lờ mờ. Trong giai đoạn này, người chết vẫn còn có ý thức một cách lơ mơ và nói mà người sống không nghe được. Nếu quá trình chết tự nhiên không bị xáo trộn bởi sự phiền não, thác loạn, đau đớn thì trạng thái tâm thức là lâng lâng yên bình. Trong thời gian Vía và Phách rút ra khỏi Xác toàn thể kiếp sống đã qua được duyệt lại như một cuốn phim. Có một số trường hợp, tưởng chết mà không chết, trong hôn mê, toàn thể kiếp sống đã qua cũng được duyệt lại như một cuốn phim mà sau khi hồi tỉnh bệnh nhân có thể kể lại. Lúc này, Phách vẫn còn kết nối lần cuối với Xác bằng một tuyến từ điện giống như sợi tóc mảnh mai sáng lấp lánh. Khi Tuyến Từ Điện này đứt mới thực sự hoàn tất cái chết của thể Xác – đây là CÁI CHẾT THỨ I.
Kế đến, chậm hơn sẽ là sự phân rã từ từ của 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần đã tạo nên thể Phách – đây là CÁI CHẾT THỨ II. 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần tan rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Phách, còn gọi là Hạt Lưu Tính [Atome physique permanent] chứa mật mã nghiệp vẫn được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực, chu kỳ mới có thể tiến hóa hoặc thoái hóa tùy nghiệp. Atome physique permanent có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được. Sự bảo tồn Atome physique permanent sẽ đề cập ở bài sau.
Kế đến, thể Vía tan rã dần – đây là CÁI CHẾT THỨ III. 7 chất Thanh Khí Trung Giới [nhà Phật gọi là Tịnh Quang] phân rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Vía [Atome astral permanent] chứa thông tin nghiệp được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực. Atome astral permanent cũng có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được giống như Atome physique permanent.
Chỉ có chất Tịnh Quang mới tồn tại được trong cõi Trung giới, Dĩ Thái Hồng Trần sẽ phân rã ở cõi Trần, không thể hoạt động trong Trung giới. Cõi Trung giới rất rộng lớn nếu so với cõi Trần và phân thành 7 tầng, vùng thanh nhẹ nhất của cõi Trung giới chạm mặt trăng khi mặt trăng ở điểm gần trái đất nhất trong quỹ đạo. Sự đen tối phát ra từ bên trong các chúng sinh Trung giới tầng thứ 7 làm cho nơi đây đầy sự hãi hùng của địa ngục. Chuyển di vào rung động tầng thứ 7 của cõi Trung giới hoàn toàn do hành động, lời nói, tư tưởng độc ác lúc sống ở cõi Trần. Sinh viên huyền môn khi nghiên cứu tầng thứ 7 đều cảm thấy rất khổ sở ghê tởm do vật chất đậm đặc lầy nhầy đen tối. Con người phải ở cảnh thấp nhất của Trung giới cho đến khi nào chất liệu nặng trược phân rã hoàn toàn khỏi Vía sẽ chuyển di tới tầng thanh nhẹ hơn, cứ như vậy cho tới khi lên được tầng thứ nhất của Trung giới.
Còn tầng thấp hơn nữa gọi là A tỳ chưa nói ở đây. Thời gian ở Trung giới hay A tỳ không cố định, có thể kéo dài hàng ngàn năm nhưng cũng có thể vài tuần tùy nghiệp báo.
Khi chất Tịnh Quang thể Vía tan rã, con người lìa cõi Trung giới lên cõi Hạ Thiên, nhà Phật gọi là cõi Trời Sắc Giới. Chỉ có 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí mới hoạt động được nơi cõi Hạ Thiên. Con người ở đây bao lâu là tùy nghiệp cho tới khi 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí phân rã hết – đây là CÁI CHẾT THỨ IV. Ở Phách và Vía thì mỗi thể có 1 Nguyên tử trường tồn được bảo vệ bởi từ trường, nhưng ở thể Hạ Trí thì Phân tử trường tồn được bảo vệ [Molécule mentale permanente].
Có một dạng từ trường đặc biệt gọi là Trame de Vie, chúng bao bọc bộ ba trường tồn. Khi khai mở Huệ nhãn [Vision Bouddhique] sẽ quan sát được Trame de Vie, dân gian gọi là Lưới Sinh Tồn hay Lưới Trời giữ thông tin về nghiệp, cho nên mới có thành ngữ về nghiệp báo: Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt.
KHE TRẦN GIAN – TRUNG GIỚI & TRƯỜNG HỢP XẤU NHẤT:
Những người tu luyện có sự thanh lọc các thể, Phách xuất ra trong tích tắc, phân rã chỉ trong vài giây, còn bình thường thì mất nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần lễ. Khi chôn người chết mà Phách chưa phân rã hết thì thường xuất hiện ‘hồn ma Dĩ Thái’ ở nghĩa trang như sương mù tím hay trắng xanh. Lợi ích lớn của hoả táng là nhờ hỏa lực nên Phách không vấn vít với sinh lực Prana còn sót trong từng tế bào của thi thể. Tà thuật ưa thích loại xác này và thể Phách ‘bị chộp’ để sử dụng vào các mục đích xấu xa ích kỷ trái nhân quả.
Những kẻ tham luyến tài sản, tình ái, công danh cho tới tận lúc lâm chung thì luôn muốn bám lấy sự sống trên cõi trần, nỗ lực điên cuồng làm Vía không hoàn toàn rời khỏi Phách mà quấn các chất Dĩ Thái Hồng Trần của Phách đang phân rã tạo ra một dạng hồn ma bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới. Loại hồn ma dật dờ này nỗ lực tiếp xúc cõi Trần thông qua Đồng Cốt, người nghiện chất thức thần hoặc loài vật, làm cho chủ thể bị ám nhập ảnh hưởng cảm xúc, thần kinh, thậm chí phát điên. Hồn ma dật dờ chịu đựng đau khổ kịch liệt vì ham muốn không được thoả mãn kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm mà dân gian gọi là ma đói, cho tới ngày thanh toán xong nghiệp quả. Người chết oan cũng dễ bị rơi vào tình trạng này. Những ngôi nhà bị ma ám cũng do các hồn ma dật dờ bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới.
Một số phù thuỷ hay pháp sư ma đầu lợi dụng tình trạng đau khổ mê muội của những hồn ma dật dờ này để luyện âm binh, điều này đặc biệt rộ lên trong những thời đại đen tối. Đây là sự đau khổ lớn lao nhất sau khi lâm chung nhưng dễ dàng tránh được nhờ hoả táng.
Hỏa táng không phải là sáng kiến của Phật giáo, theo hồ sơ khảo cổ học thì hỏa táng có từ 42.000 năm trước đây. Các tu sỹ Phật giáo đắc quả thánh được khai mở Tuệ Nhãn thấy được lợi ích trợ giúp siêu thoát của việc hỏa táng nên áp dụng vào đạo Phật.
CÒN TIẾP.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Con người cấu tạo từ nhiều Thể lồng vào nhau nên không có cái chết đồng thời mà từng Thể chết cách riêng. Các chất cấu tạo nên các Thể sẽ phân rã ở cõi giới tương ứng với rung động của nó, hoàn trả về vũ trụ. Mỗi thể hư hoại có Hạt Lưu Tính được từ trường Trame de Vie bảo tồn để chuyển sinh.
Trong cái chết bình thường, vào giai đoạn cận tử, sinh lực Prana từ từ thu rút về tim rồi theo kênh Sushumna thứ cấp [Sushumna secondaire], không phải kênh thẳng mà hai kênh xoáy, nhập vào não thất thứ ba [3 è Venticute - xem ảnh comment], rồi vào điểm giữa của đường khớp đỉnh sọ [vị trí luân xa 7 hay huyệt Bách Hội] rời khỏi thể Xác. Tây y thì coi đây là chết, nhưng sự thực đây mới chỉ là bắt đầu quy trình chết.
Bạn giở lại phần về thể Vía trong bài 1: lúc chúng ta ngủ, thể Vía có thể ra khỏi thể Xác và thể Phách, để lại hai thể đó trên giường [khi đó Phách vẫn cấp dưỡng Prana cho Xác]. Khi chết không giống lúc ngủ, Vía ra khỏi thể Xác nhưng nó ‘quấn theo’ thể Phách, để lại thể Xác không còn được cấp dưỡng sinh khí Prana.
Khi thể Phách vừa ra khỏi thể Xác, có thể thấy nó giống một đám sương mù màu tím hoặc trắng xanh xám giống hình hài người, nhiều người chụp được và lầm tưởng là Linh Hồn. Khi Prana không còn trong thể Xác thì liên kết tế bào bắt đầu mất đi, nhưng sự sống nội môi của bản thân mỗi tế bào riêng rẽ vẫn tiếp tục trong một khoảng thời gian ngắn nữa do tế bào dự trữ được sinh khí Prana ngay trong nhân tế bào.
Khi thể Phách vừa rời bỏ Xác thì nó chưa phân rã hết mà thường trôi nổi bên trên tử thi, dân gian gọi là ‘hồn ma bóng quế’, có thể xuất hiện trước mặt những người có liên hệ mật thiết dưới dạng một hình lờ mờ. Trong giai đoạn này, người chết vẫn còn có ý thức một cách lơ mơ và nói mà người sống không nghe được. Nếu quá trình chết tự nhiên không bị xáo trộn bởi sự phiền não, thác loạn, đau đớn thì trạng thái tâm thức là lâng lâng yên bình. Trong thời gian Vía và Phách rút ra khỏi Xác toàn thể kiếp sống đã qua được duyệt lại như một cuốn phim. Có một số trường hợp, tưởng chết mà không chết, trong hôn mê, toàn thể kiếp sống đã qua cũng được duyệt lại như một cuốn phim mà sau khi hồi tỉnh bệnh nhân có thể kể lại. Lúc này, Phách vẫn còn kết nối lần cuối với Xác bằng một tuyến từ điện giống như sợi tóc mảnh mai sáng lấp lánh. Khi Tuyến Từ Điện này đứt mới thực sự hoàn tất cái chết của thể Xác – đây là CÁI CHẾT THỨ I.
Kế đến, chậm hơn sẽ là sự phân rã từ từ của 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần đã tạo nên thể Phách – đây là CÁI CHẾT THỨ II. 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần tan rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Phách, còn gọi là Hạt Lưu Tính [Atome physique permanent] chứa mật mã nghiệp vẫn được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực, chu kỳ mới có thể tiến hóa hoặc thoái hóa tùy nghiệp. Atome physique permanent có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được. Sự bảo tồn Atome physique permanent sẽ đề cập ở bài sau.
Kế đến, thể Vía tan rã dần – đây là CÁI CHẾT THỨ III. 7 chất Thanh Khí Trung Giới [nhà Phật gọi là Tịnh Quang] phân rã nhưng Nguyên Tử Trường Tồn của Vía [Atome astral permanent] chứa thông tin nghiệp được giữ gìn trong trường thông tin vũ trụ để kiến tạo chu kỳ mới theo đúng nghiệp lực. Atome astral permanent cũng có một từ trường bao phủ không có gì thâm nhập được giống như Atome physique permanent.
Chỉ có chất Tịnh Quang mới tồn tại được trong cõi Trung giới, Dĩ Thái Hồng Trần sẽ phân rã ở cõi Trần, không thể hoạt động trong Trung giới. Cõi Trung giới rất rộng lớn nếu so với cõi Trần và phân thành 7 tầng, vùng thanh nhẹ nhất của cõi Trung giới chạm mặt trăng khi mặt trăng ở điểm gần trái đất nhất trong quỹ đạo. Sự đen tối phát ra từ bên trong các chúng sinh Trung giới tầng thứ 7 làm cho nơi đây đầy sự hãi hùng của địa ngục. Chuyển di vào rung động tầng thứ 7 của cõi Trung giới hoàn toàn do hành động, lời nói, tư tưởng độc ác lúc sống ở cõi Trần. Sinh viên huyền môn khi nghiên cứu tầng thứ 7 đều cảm thấy rất khổ sở ghê tởm do vật chất đậm đặc lầy nhầy đen tối. Con người phải ở cảnh thấp nhất của Trung giới cho đến khi nào chất liệu nặng trược phân rã hoàn toàn khỏi Vía sẽ chuyển di tới tầng thanh nhẹ hơn, cứ như vậy cho tới khi lên được tầng thứ nhất của Trung giới.
Còn tầng thấp hơn nữa gọi là A tỳ chưa nói ở đây. Thời gian ở Trung giới hay A tỳ không cố định, có thể kéo dài hàng ngàn năm nhưng cũng có thể vài tuần tùy nghiệp báo.
Khi chất Tịnh Quang thể Vía tan rã, con người lìa cõi Trung giới lên cõi Hạ Thiên, nhà Phật gọi là cõi Trời Sắc Giới. Chỉ có 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí mới hoạt động được nơi cõi Hạ Thiên. Con người ở đây bao lâu là tùy nghiệp cho tới khi 4 chất Thượng Thanh Khí Thấp bậc 4, 5, 6, 7 cấu tạo nên thể Hạ Trí phân rã hết – đây là CÁI CHẾT THỨ IV. Ở Phách và Vía thì mỗi thể có 1 Nguyên tử trường tồn được bảo vệ bởi từ trường, nhưng ở thể Hạ Trí thì Phân tử trường tồn được bảo vệ [Molécule mentale permanente].
Có một dạng từ trường đặc biệt gọi là Trame de Vie, chúng bao bọc bộ ba trường tồn. Khi khai mở Huệ nhãn [Vision Bouddhique] sẽ quan sát được Trame de Vie, dân gian gọi là Lưới Sinh Tồn hay Lưới Trời giữ thông tin về nghiệp, cho nên mới có thành ngữ về nghiệp báo: Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt.
KHE TRẦN GIAN – TRUNG GIỚI & TRƯỜNG HỢP XẤU NHẤT:
Những người tu luyện có sự thanh lọc các thể, Phách xuất ra trong tích tắc, phân rã chỉ trong vài giây, còn bình thường thì mất nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều tuần lễ. Khi chôn người chết mà Phách chưa phân rã hết thì thường xuất hiện ‘hồn ma Dĩ Thái’ ở nghĩa trang như sương mù tím hay trắng xanh. Lợi ích lớn của hoả táng là nhờ hỏa lực nên Phách không vấn vít với sinh lực Prana còn sót trong từng tế bào của thi thể. Tà thuật ưa thích loại xác này và thể Phách ‘bị chộp’ để sử dụng vào các mục đích xấu xa ích kỷ trái nhân quả.
Những kẻ tham luyến tài sản, tình ái, công danh cho tới tận lúc lâm chung thì luôn muốn bám lấy sự sống trên cõi trần, nỗ lực điên cuồng làm Vía không hoàn toàn rời khỏi Phách mà quấn các chất Dĩ Thái Hồng Trần của Phách đang phân rã tạo ra một dạng hồn ma bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới. Loại hồn ma dật dờ này nỗ lực tiếp xúc cõi Trần thông qua Đồng Cốt, người nghiện chất thức thần hoặc loài vật, làm cho chủ thể bị ám nhập ảnh hưởng cảm xúc, thần kinh, thậm chí phát điên. Hồn ma dật dờ chịu đựng đau khổ kịch liệt vì ham muốn không được thoả mãn kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm mà dân gian gọi là ma đói, cho tới ngày thanh toán xong nghiệp quả. Người chết oan cũng dễ bị rơi vào tình trạng này. Những ngôi nhà bị ma ám cũng do các hồn ma dật dờ bị kẹt ở khe Trần gian - Trung giới.
Một số phù thuỷ hay pháp sư ma đầu lợi dụng tình trạng đau khổ mê muội của những hồn ma dật dờ này để luyện âm binh, điều này đặc biệt rộ lên trong những thời đại đen tối. Đây là sự đau khổ lớn lao nhất sau khi lâm chung nhưng dễ dàng tránh được nhờ hoả táng.
Hỏa táng không phải là sáng kiến của Phật giáo, theo hồ sơ khảo cổ học thì hỏa táng có từ 42.000 năm trước đây. Các tu sỹ Phật giáo đắc quả thánh được khai mở Tuệ Nhãn thấy được lợi ích trợ giúp siêu thoát của việc hỏa táng nên áp dụng vào đạo Phật.
CÒN TIẾP.
Nguồn FB Cô Liên Hương
CÓ BA DẠNG KẾT THÚC MỘT CHU KỲ SINH MỆNH:
* Chết do chấm dứt thân mạng nhưng nghiệp mạng chưa hết, nên tiến trình tử tâm [cuti] qua thức tục sinh [patisandhi] chưa diễn ra.
* Chết do sinh nghiệp chấm dứt nhưng thân còn hoạt động như trường hợp sống thực vật nhờ cấp dưỡng nhân tạo [oxy dịch truyền].
* Chết do thân mạng và nghiệp mạng cùng chấm dứt, chết thực sự và tái sinh thân trung ấm.
Bởi vậy, minh triết truyền thống không đụng vào người hấp hối và thi thể mà để yên phòng khi tiến trình tử tâm [cuti] của người chết chưa hoàn thành, chờ vài ngày cho người chết tái sinh thân trung ấm rồi mới liệm, mai táng, hoả táng. Khi đã chắc chắn cả thân mạng và nghiệp mạng chấm dứt thì xử lý xác không cản trở gì chu trình tự nhiên.
Khi chết ngũ uẩn không hoàn toàn trở về cát bụi. Trong ngũ uẩn chỉ có sắc uẩn trở về tứ đại, còn thọ, tưởng, hành, thức vẫn tiếp tục diễn tiến qua lộ trình tử tâm [cuti] đến sinh thức [patisandhi].
Con người được chết ở nhà là bình an nhất. Gia quyến bình tĩnh hỗ trợ người ruột thịt cận tử, không kêu khóc mà nhất tâm cầu nguyện, trì chú, thỉnh cầu các Thế Lực Ánh Sáng dẫn dắt lộ trình tử tâm [cuti]. Trước đó cần trợ giúp người thân thanh toán một số nghiệp xấu tồn đọng nổi bật để quá trình thân trung ấm được thuận lợi.
Nếu gia đình có sự tu tập, sẽ cảm nhận được các điềm báo trước về lộ trình tử tâm để chuẩn bị, trước thời điểm hấp hối vài ngày hoặc vài giờ sẽ thấy ánh sáng tiếp dẫn dưới hình thức mây màu hoặc cầu vồng.
Tôi đã trực tiếp chăm sóc hai lộ trình tử kiểu 1 và 2, tôi thực chứng rất rõ.
Điều quan trọng nhất không phải là làm tang to mà là khôn ngoan thanh toán nghiệp tiêu cực còn sót lại khi sắp lâm chung.
Nguồn FB Cô Liên Hương
* Chết do chấm dứt thân mạng nhưng nghiệp mạng chưa hết, nên tiến trình tử tâm [cuti] qua thức tục sinh [patisandhi] chưa diễn ra.
* Chết do sinh nghiệp chấm dứt nhưng thân còn hoạt động như trường hợp sống thực vật nhờ cấp dưỡng nhân tạo [oxy dịch truyền].
* Chết do thân mạng và nghiệp mạng cùng chấm dứt, chết thực sự và tái sinh thân trung ấm.
Bởi vậy, minh triết truyền thống không đụng vào người hấp hối và thi thể mà để yên phòng khi tiến trình tử tâm [cuti] của người chết chưa hoàn thành, chờ vài ngày cho người chết tái sinh thân trung ấm rồi mới liệm, mai táng, hoả táng. Khi đã chắc chắn cả thân mạng và nghiệp mạng chấm dứt thì xử lý xác không cản trở gì chu trình tự nhiên.
Khi chết ngũ uẩn không hoàn toàn trở về cát bụi. Trong ngũ uẩn chỉ có sắc uẩn trở về tứ đại, còn thọ, tưởng, hành, thức vẫn tiếp tục diễn tiến qua lộ trình tử tâm [cuti] đến sinh thức [patisandhi].
Con người được chết ở nhà là bình an nhất. Gia quyến bình tĩnh hỗ trợ người ruột thịt cận tử, không kêu khóc mà nhất tâm cầu nguyện, trì chú, thỉnh cầu các Thế Lực Ánh Sáng dẫn dắt lộ trình tử tâm [cuti]. Trước đó cần trợ giúp người thân thanh toán một số nghiệp xấu tồn đọng nổi bật để quá trình thân trung ấm được thuận lợi.
Nếu gia đình có sự tu tập, sẽ cảm nhận được các điềm báo trước về lộ trình tử tâm để chuẩn bị, trước thời điểm hấp hối vài ngày hoặc vài giờ sẽ thấy ánh sáng tiếp dẫn dưới hình thức mây màu hoặc cầu vồng.
Tôi đã trực tiếp chăm sóc hai lộ trình tử kiểu 1 và 2, tôi thực chứng rất rõ.
Điều quan trọng nhất không phải là làm tang to mà là khôn ngoan thanh toán nghiệp tiêu cực còn sót lại khi sắp lâm chung.
Nguồn FB Cô Liên Hương
CHĂM SÓC SỰ CHẾT.
Chăm sóc sự chết còn quan trọng hơn chăm sóc thai phụ chuyển dạ và cuộc sinh bởi nó quyết định lớn tới sự tái sinh của kiếp sau.
Kết thúc chu kỳ sống một cách bình thường [không bất đắc kỳ tử] trải qua 3 phân đoạn, có sự đan xen: lâm chung, tiếp dẫn, tái sinh.
* Lâm chung kéo dài 3 ngày từ lúc tim ngừng đập.
* Tiếp dẫn kéo dài 14 ngày tùy theo duyên nghiệp.
* Từ ngày thứ 4 đến ngày 17 thần thức bắt đầu giai đoạn Thân Trung Ấm, nghĩa là “ấm” trước đã hết “ấm” sau chưa có thân, trạng thái sinh mệnh vô thân gọi là Thân Trung Ấm, giai đoạn này kéo dài tới ngày thứ 49 sau khi tim ngừng đập, có khi tới 100 ngày hoặc rất lâu tuỳ theo nghiệp [ở FB cũ tôi đã giới thiệu về khe hở trần gian – trung giới có thể dẫn tới tới tình trạng kéo dài trung ấm]. Trong 21 ngày đầu người chết sẽ sống lại các nghiệp đã tạo, 7 ngày kế sẽ tìm nơi tái sinh. Sách Tử thư Tây Tạng phân biệt nhiều cấp độ Thân Trung Ấm như mumūrṣāntarābhava, dharmatāntarābhava, bhavāntarābhava…
Tư tưởng và tâm lý thời gian cận tử và ngay trước lâm chung là rất quan trọng bởi tác động lớn tới sự tái sinh mặc dầu nghiệp báo vẫn là chủ đạo. Thân quyến không được kêu khóc làm xao động tâm trạng của người sắp chết, làm họ quyến luyến, tham ái; không được lục lọi tài sản của người sắp chết, không bàn bạc về chia tài sản trong thất thất lai tuần; không cãi nhau trong nhà...
Lúc lâm chung, trừ những vị tu tập, những yogi thượng thừa đã thiền định qua cửa sinh tử nhiều lần với mục đích trau dồi kinh nghiệm, tự chủ hoàn toàn lúc lâm chung, định hướng tái sinh, người bình thường thì rất cần được chăm sóc bởi thần thức người chết cảm thấy khổ sở, thân thể nặng nề, lạnh lẽo khi tứ đại tan rã. Thần thức chưa nhận thức rằng đã chết, vẫn quanh quẩn trong nhà với người thân, nói chuyện với người thân nhưng không được để ý, trải qua thời gian thì thần thức hiểu ra là đã chết rồi. Những người chết ở BV phải nằm nhà lạnh khổ hơn được chết ở nhà.
Kể từ lâm chung và trong tiếp dẫn, người hộ tử phải an ủi và nhắc thần thức về các hiện tượng xảy ra, khuyên thần thức hãy bình tĩnh hoan hỷ đi vào vùng ánh sáng chói lòa vì đó là hào quang năng lượng cao của cõi tịnh, thần thức nên hòa nhập vào vùng ánh sáng chói loà, đừng lạc vào vùng sáng mờ nhạt [mặc dầu nó dễ chịu] vì đó là các cảnh giới thấp. Là Phật tử thì có thể cùng niệm danh đức A-di-đà pháp thân Phật để cầu tiếp dẫn. Tại sao lại niệm đức A-di-đà tôi sẽ đề cập ở bài khác. Các tín hữu tôn giáo khác có các đấng hồng ân riêng của họ.
Tang sự rất bận và cần nhân lực có kiến thức, thân quyến đừng than khóc mà bình tĩnh làm các việc hậu sự thế gian, trong đó có việc xem ngày an táng, đồng thời – quan trọng hơn, phải làm các phước thiện để hồi hướng kịp thời càng sớm càng tốt trong giai đoạn đầu trung ấm chứ đừng để tới ngày 48-49.
Sau khi người thân tắt thở, để thi thể được yên tĩnh trong phòng riêng 3 ngày, nếu mùa hè thì dùng điều hoà hoặc mua đá khô để làm mát phòng, cử người có kinh nghiệm và có tâm thường trực an ủi người vừa chết. Sau đó mới nên tiến hành khâm liệm, mai táng. Sau khi mai táng, hằng ngày vẫn cúng, nhắc nhở thần thức như nêu trên ở trước bàn thờ mới lập ít nhất 49 ngày. Có thể đọc từng phần các hướng dẫn trong cuốn “Tử thư” trong khi cúng. Mỗi gia đình nên có một cuốn, trong đó hướng dẫn rất chi tiết về các vùng ánh sáng.
Khi người thân có dấu hiệu trở bệnh hoặc cạn năng lượng trong chết già tự nhiên nhưng vẫn còn tỉnh táo, hãy giúp họ thanh toán nghiệp cận tử hiển lộ báo ứng hoặc những gì họ ăn năn thống hối, việc này giúp giải toả tâm lý cho người sắp mất.
Khi chết ngũ uẩn không hoàn toàn trở về cát bụi. Trong ngũ uẩn chỉ có sắc uẩn trở về tứ đại, còn thọ, tưởng, hành, thức vẫn tiếp tục diễn tiến.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Chăm sóc sự chết còn quan trọng hơn chăm sóc thai phụ chuyển dạ và cuộc sinh bởi nó quyết định lớn tới sự tái sinh của kiếp sau.
Kết thúc chu kỳ sống một cách bình thường [không bất đắc kỳ tử] trải qua 3 phân đoạn, có sự đan xen: lâm chung, tiếp dẫn, tái sinh.
* Lâm chung kéo dài 3 ngày từ lúc tim ngừng đập.
* Tiếp dẫn kéo dài 14 ngày tùy theo duyên nghiệp.
* Từ ngày thứ 4 đến ngày 17 thần thức bắt đầu giai đoạn Thân Trung Ấm, nghĩa là “ấm” trước đã hết “ấm” sau chưa có thân, trạng thái sinh mệnh vô thân gọi là Thân Trung Ấm, giai đoạn này kéo dài tới ngày thứ 49 sau khi tim ngừng đập, có khi tới 100 ngày hoặc rất lâu tuỳ theo nghiệp [ở FB cũ tôi đã giới thiệu về khe hở trần gian – trung giới có thể dẫn tới tới tình trạng kéo dài trung ấm]. Trong 21 ngày đầu người chết sẽ sống lại các nghiệp đã tạo, 7 ngày kế sẽ tìm nơi tái sinh. Sách Tử thư Tây Tạng phân biệt nhiều cấp độ Thân Trung Ấm như mumūrṣāntarābhava, dharmatāntarābhava, bhavāntarābhava…
Tư tưởng và tâm lý thời gian cận tử và ngay trước lâm chung là rất quan trọng bởi tác động lớn tới sự tái sinh mặc dầu nghiệp báo vẫn là chủ đạo. Thân quyến không được kêu khóc làm xao động tâm trạng của người sắp chết, làm họ quyến luyến, tham ái; không được lục lọi tài sản của người sắp chết, không bàn bạc về chia tài sản trong thất thất lai tuần; không cãi nhau trong nhà...
Lúc lâm chung, trừ những vị tu tập, những yogi thượng thừa đã thiền định qua cửa sinh tử nhiều lần với mục đích trau dồi kinh nghiệm, tự chủ hoàn toàn lúc lâm chung, định hướng tái sinh, người bình thường thì rất cần được chăm sóc bởi thần thức người chết cảm thấy khổ sở, thân thể nặng nề, lạnh lẽo khi tứ đại tan rã. Thần thức chưa nhận thức rằng đã chết, vẫn quanh quẩn trong nhà với người thân, nói chuyện với người thân nhưng không được để ý, trải qua thời gian thì thần thức hiểu ra là đã chết rồi. Những người chết ở BV phải nằm nhà lạnh khổ hơn được chết ở nhà.
Kể từ lâm chung và trong tiếp dẫn, người hộ tử phải an ủi và nhắc thần thức về các hiện tượng xảy ra, khuyên thần thức hãy bình tĩnh hoan hỷ đi vào vùng ánh sáng chói lòa vì đó là hào quang năng lượng cao của cõi tịnh, thần thức nên hòa nhập vào vùng ánh sáng chói loà, đừng lạc vào vùng sáng mờ nhạt [mặc dầu nó dễ chịu] vì đó là các cảnh giới thấp. Là Phật tử thì có thể cùng niệm danh đức A-di-đà pháp thân Phật để cầu tiếp dẫn. Tại sao lại niệm đức A-di-đà tôi sẽ đề cập ở bài khác. Các tín hữu tôn giáo khác có các đấng hồng ân riêng của họ.
Tang sự rất bận và cần nhân lực có kiến thức, thân quyến đừng than khóc mà bình tĩnh làm các việc hậu sự thế gian, trong đó có việc xem ngày an táng, đồng thời – quan trọng hơn, phải làm các phước thiện để hồi hướng kịp thời càng sớm càng tốt trong giai đoạn đầu trung ấm chứ đừng để tới ngày 48-49.
Sau khi người thân tắt thở, để thi thể được yên tĩnh trong phòng riêng 3 ngày, nếu mùa hè thì dùng điều hoà hoặc mua đá khô để làm mát phòng, cử người có kinh nghiệm và có tâm thường trực an ủi người vừa chết. Sau đó mới nên tiến hành khâm liệm, mai táng. Sau khi mai táng, hằng ngày vẫn cúng, nhắc nhở thần thức như nêu trên ở trước bàn thờ mới lập ít nhất 49 ngày. Có thể đọc từng phần các hướng dẫn trong cuốn “Tử thư” trong khi cúng. Mỗi gia đình nên có một cuốn, trong đó hướng dẫn rất chi tiết về các vùng ánh sáng.
Khi người thân có dấu hiệu trở bệnh hoặc cạn năng lượng trong chết già tự nhiên nhưng vẫn còn tỉnh táo, hãy giúp họ thanh toán nghiệp cận tử hiển lộ báo ứng hoặc những gì họ ăn năn thống hối, việc này giúp giải toả tâm lý cho người sắp mất.
Khi chết ngũ uẩn không hoàn toàn trở về cát bụi. Trong ngũ uẩn chỉ có sắc uẩn trở về tứ đại, còn thọ, tưởng, hành, thức vẫn tiếp tục diễn tiến.
Nguồn FB Cô Liên Hương
✋热门推荐