Giữ cho trực giác được sống động!
Bước đầu tiên để nhận biết linh hồn là phân biệt các nhóm tần số khác nhau của một thực thể sống mà kinh điển gọi là các Thể. Nếu không phân biệt và nội quán để thấy sự hoạt động nổi trội của từng tần số trong một thời điểm thì sẽ lẫn lộn, không biết làm gì cho đúng. Về nội dung này thì các giáo huấn của Krishnamurti là dễ hiểu nhất, hơn nữa, được ông trình bày bằng văn phong hiện đại.
Lúc viết những dòng này, Krishnamurti 14 tuổi có tên là Alcyone, mồ côi mẹ, được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và linh mục Charles Webster Leadbeater. Krishnamurti nhỏ đã chép lại lời Chân sư khai tâm khi huấn luyện để được điểm đạo, chép lại bằng tiếng Anh mặc dầu mới học Anh ngữ được hơn năm.
Trích: “At The Feet of The Master” xuất bản lần đầu 1910.
Tác giả: Alcyone – tên khi nhỏ của Jiddu Krishnamurti.
_____
PHÂN BIỆT:
Trên thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Duy chỉ có sự hiểu biết mới là hệ trọng mà thôi. Con người theo tôn giáo nào hay thuộc về giống dân nào là không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là hiểu Luật Trời. Hiểu biết mới thuận theo lẽ trời, một lòng làm lành, chống chọi với sự ác, lo giúp cho muôn loài cùng tiến hóa chứ không vì tư lợi. Người mà thuận theo lẽ trời là người một nhà, dầu họ giữ đạo Bàlamôn hay đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, hoặc là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không thành vấn đề.
Ðừng nhầm lẫn các Thể Hư Hoại của con là Con. Cái Xác, cái Vía, cái Trí không phải thật là Con đâu. Nhưng mỗi Thể đó đều giả vờ xưng là Con để đạt được những điều chúng nó muốn. Con phải hiểu chúng và phải tự biết rằng chính Con là chủ của chúng.
THỂ XÁC:
* Khi có một việc nên làm, cái Xác lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, cần đi chơi, cần ăn uống; người chưa hiểu biết tưởng rằng "Tôi cần mấy việc đó nên tôi phải làm mới được". Còn người hiểu biết nói: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chứ không phải tôi đâu, nó phải đợi".
* Khi có dịp giúp đỡ người khác, cái Xác nghĩ: "Việc đó sẽ phiền mình lắm! Để cho người khác làm". Nhưng con người hiểu biết trả lời cái Xác: "Ngươi không nên cản Ta làm những việc tốt lành".
* Thể Xác vốn là con ngựa cho con cưỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và săn sóc nó kỹ lưỡng. Phải nuôi nó cho đúng phép với những thực phẩm tinh khiết và giữ gìn cho nó luôn sạch sẽ. Không có xác thân tinh khiết thì không thể nào bước vào đường Đạo.
* Phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể Xác chứ không phải là Thể Xác điều khiển sai khiến con.
THỂ VÍA:
Cái Vía của con có nhiều sự ước ao – lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nó muốn thấy con ganh tỵ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngã lòng rủn chí... Không phải Vía cố ý hại con, mà tại Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liên tục. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Vía.
THỂ TRÍ:
Cái Trí của con ưa thích kiêu căng chia rẽ, không thích ngó ngàng đến kẻ khác. Dù khi con hướng sự chú ý của con ra khỏi những việc trần gian được rồi, nó còn ráng gom hết về, nó xúi giục con chú ý tới sự tiến hóa riêng của con chứ không lo nghĩ đến công việc của Chân Sư hay giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền, nó cố sức làm cho con nghĩ đến những chuyện lung tung mà nó muốn thay vì chuyện duy nhất mà con muốn. Con không phải là Cái Trí đó đâu, nó là một Thể của con, để cho con xử dụng, con phải canh chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại.
_____
Jiddu Krishnamurti sinh ngày 12/5/1895, mất 17/2/1986. Ông là một bậc thầy đặc sắc nổi tiếng nhất thời hiện đại về các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức, tinh thần với các chủ đề không giới hạn: mối quan hệ giữa con người, phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu, mục đích của thiền định, tình yêu, việc làm, giáo dục... Ông là tác giả của rất nhiều sách và một khối lượng đồ sộ các bài giảng và thảo luận của ông đã được xuất bản, tái bản nhiều lần bằng mọi ngôn ngữ.
Krishnamurti sinh ra trong một gia đình Bàlamôn trung lưu giữ chay nghiêm khắc tại Ấn Độ. Khi còn bé, sau khi mồ côi mẹ, Krishnamurti gặp Linh mục C.W. Leadbeater một nhà ngoại cảm huyền bí học nổi tiếng trên một bãi biển. Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và Cha Leadbeater, họ tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế Giới trong tương lai.
Krishnamurti được hưởng sự giáo dục ưu tú nhất mà chưa một cư dân địa cầu nào có được, kết hợp rèn luyện tâm linh, nội quán với học thuật Âu châu; kết hợp thể dục thể thao với thiền định và dinh dưỡng chay; kết hợp sự phóng khoáng kiểu Âu Mỹ với sự cô tịch truyền thống… sự giáo dục đã thành công. Khi trưởng thành, chính Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng mình là bậc thầy và đã giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông năm 1929 – một tổ chức toàn cầu để hỗ trợ ý tưởng tôn vinh ông.
Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, ông đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập tới tận lúc 91 tuổi. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về “Hòa bình và nhận thức”. Ông được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi diễn thuyết trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 01/1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng ở California, Hoa Kỳ.
Giáo huấn của ông vượt khỏi tất cả các biên giới do con người tạo ra trong niềm tin tôn giáo, cảm tình quốc gia, hệ phái... chúng cho một ý nghĩa và phương hướng mới để tìm hiểu về sự thiêng liêng. Những giáo huấn của ông có tính tổng thể và phi thời gian.
Khi linh mục Leadbeater nhìn thấy Krishnamurti lần đầu, tiều tụy sau khi mồ côi mẹ trên bãi biển Adyar đông người, ông nhìn hào quang và không do dự nói ngay: “Đây là một linh hồn tiến hoá cao, không bị ô nhiễm bởi sự ích kỷ và đă có nhiều kiếp liên hệ với Chân sư.”
Nguồn FB Cô Liên Hương
Bước đầu tiên để nhận biết linh hồn là phân biệt các nhóm tần số khác nhau của một thực thể sống mà kinh điển gọi là các Thể. Nếu không phân biệt và nội quán để thấy sự hoạt động nổi trội của từng tần số trong một thời điểm thì sẽ lẫn lộn, không biết làm gì cho đúng. Về nội dung này thì các giáo huấn của Krishnamurti là dễ hiểu nhất, hơn nữa, được ông trình bày bằng văn phong hiện đại.
Lúc viết những dòng này, Krishnamurti 14 tuổi có tên là Alcyone, mồ côi mẹ, được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và linh mục Charles Webster Leadbeater. Krishnamurti nhỏ đã chép lại lời Chân sư khai tâm khi huấn luyện để được điểm đạo, chép lại bằng tiếng Anh mặc dầu mới học Anh ngữ được hơn năm.
Trích: “At The Feet of The Master” xuất bản lần đầu 1910.
Tác giả: Alcyone – tên khi nhỏ của Jiddu Krishnamurti.
_____
PHÂN BIỆT:
Trên thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Duy chỉ có sự hiểu biết mới là hệ trọng mà thôi. Con người theo tôn giáo nào hay thuộc về giống dân nào là không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là hiểu Luật Trời. Hiểu biết mới thuận theo lẽ trời, một lòng làm lành, chống chọi với sự ác, lo giúp cho muôn loài cùng tiến hóa chứ không vì tư lợi. Người mà thuận theo lẽ trời là người một nhà, dầu họ giữ đạo Bàlamôn hay đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, hoặc là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không thành vấn đề.
Ðừng nhầm lẫn các Thể Hư Hoại của con là Con. Cái Xác, cái Vía, cái Trí không phải thật là Con đâu. Nhưng mỗi Thể đó đều giả vờ xưng là Con để đạt được những điều chúng nó muốn. Con phải hiểu chúng và phải tự biết rằng chính Con là chủ của chúng.
THỂ XÁC:
* Khi có một việc nên làm, cái Xác lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, cần đi chơi, cần ăn uống; người chưa hiểu biết tưởng rằng "Tôi cần mấy việc đó nên tôi phải làm mới được". Còn người hiểu biết nói: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chứ không phải tôi đâu, nó phải đợi".
* Khi có dịp giúp đỡ người khác, cái Xác nghĩ: "Việc đó sẽ phiền mình lắm! Để cho người khác làm". Nhưng con người hiểu biết trả lời cái Xác: "Ngươi không nên cản Ta làm những việc tốt lành".
* Thể Xác vốn là con ngựa cho con cưỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và săn sóc nó kỹ lưỡng. Phải nuôi nó cho đúng phép với những thực phẩm tinh khiết và giữ gìn cho nó luôn sạch sẽ. Không có xác thân tinh khiết thì không thể nào bước vào đường Đạo.
* Phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể Xác chứ không phải là Thể Xác điều khiển sai khiến con.
THỂ VÍA:
Cái Vía của con có nhiều sự ước ao – lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nó muốn thấy con ganh tỵ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngã lòng rủn chí... Không phải Vía cố ý hại con, mà tại Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liên tục. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Vía.
THỂ TRÍ:
Cái Trí của con ưa thích kiêu căng chia rẽ, không thích ngó ngàng đến kẻ khác. Dù khi con hướng sự chú ý của con ra khỏi những việc trần gian được rồi, nó còn ráng gom hết về, nó xúi giục con chú ý tới sự tiến hóa riêng của con chứ không lo nghĩ đến công việc của Chân Sư hay giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền, nó cố sức làm cho con nghĩ đến những chuyện lung tung mà nó muốn thay vì chuyện duy nhất mà con muốn. Con không phải là Cái Trí đó đâu, nó là một Thể của con, để cho con xử dụng, con phải canh chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại.
_____
Jiddu Krishnamurti sinh ngày 12/5/1895, mất 17/2/1986. Ông là một bậc thầy đặc sắc nổi tiếng nhất thời hiện đại về các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức, tinh thần với các chủ đề không giới hạn: mối quan hệ giữa con người, phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu, mục đích của thiền định, tình yêu, việc làm, giáo dục... Ông là tác giả của rất nhiều sách và một khối lượng đồ sộ các bài giảng và thảo luận của ông đã được xuất bản, tái bản nhiều lần bằng mọi ngôn ngữ.
Krishnamurti sinh ra trong một gia đình Bàlamôn trung lưu giữ chay nghiêm khắc tại Ấn Độ. Khi còn bé, sau khi mồ côi mẹ, Krishnamurti gặp Linh mục C.W. Leadbeater một nhà ngoại cảm huyền bí học nổi tiếng trên một bãi biển. Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và Cha Leadbeater, họ tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế Giới trong tương lai.
Krishnamurti được hưởng sự giáo dục ưu tú nhất mà chưa một cư dân địa cầu nào có được, kết hợp rèn luyện tâm linh, nội quán với học thuật Âu châu; kết hợp thể dục thể thao với thiền định và dinh dưỡng chay; kết hợp sự phóng khoáng kiểu Âu Mỹ với sự cô tịch truyền thống… sự giáo dục đã thành công. Khi trưởng thành, chính Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng mình là bậc thầy và đã giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông năm 1929 – một tổ chức toàn cầu để hỗ trợ ý tưởng tôn vinh ông.
Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, ông đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập tới tận lúc 91 tuổi. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về “Hòa bình và nhận thức”. Ông được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi diễn thuyết trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 01/1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng ở California, Hoa Kỳ.
Giáo huấn của ông vượt khỏi tất cả các biên giới do con người tạo ra trong niềm tin tôn giáo, cảm tình quốc gia, hệ phái... chúng cho một ý nghĩa và phương hướng mới để tìm hiểu về sự thiêng liêng. Những giáo huấn của ông có tính tổng thể và phi thời gian.
Khi linh mục Leadbeater nhìn thấy Krishnamurti lần đầu, tiều tụy sau khi mồ côi mẹ trên bãi biển Adyar đông người, ông nhìn hào quang và không do dự nói ngay: “Đây là một linh hồn tiến hoá cao, không bị ô nhiễm bởi sự ích kỷ và đă có nhiều kiếp liên hệ với Chân sư.”
Nguồn FB Cô Liên Hương
Tinh dầu, hương thơm và ứng dụng
Trái với chất béo động vật – là nơi tích độc tố trong chu trình sống, chất béo thực vật lại là tinh túy của thiên nhiên. Ngoài việc ép dầu, đốt cây khô, người xưa đã biết chưng cất hơi nước để thu được tinh dầu thơm. Các phần tử siêu nhỏ của tinh dầu dễ dàng lan toả trong không khí, thâm nhập vào da, phổi rồi qua mao mạch vào hệ thống tuần hoàn đem lại các tác dụng rõ rệt.
Tinh hoa từ các nền văn minh xưa mà loài người còn lưu giữ được cho thấy rằng, người Ai cập cổ đại đã coi tinh dầu mang năng lượng mạnh gấp 100 lần thảo dược và đã biết dùng hương thơm thực vật để giảm đau, chống viêm, tác động tới cảm xúc và thể chất, thư giãn hay kích thích, chữa trị, cúng dường, ướp thi thể…
Những nhà thông linh trong các bộ lạc cổ đều hiểu biết về tác động tinh tế của hương thực vật tới nhận thức và trực giác, chữa lành và cân bằng tâm lý. Người da đỏ châu Mỹ dùng cây Xô thơm [Salvia officinalis] – một loại gia vị nhiều tinh dầu, đốt lên để tẩy trược, trừ tà, trước và sau các buổi chữa bệnh, trong các lễ cúng Thần linh, trước một buổi thông linh.
Dân xứ băng tuyết thì tắm hơi nóng dùng cành lá chứa tinh dầu quật vào người. Người Nga tắm lá Sồi, Bạch dương, Khuynh diệp, Tùng, Tầm ma, Trăn, Anh đào dại, Kim ngân, Thanh lương trà, Phúc bồn tử cho các vấn đề khác nhau, ví dụ khi hành hôn, cô dâu chú rể có nghi lễ tắm lá.
Rất nhiều dân tộc xông cây Thanh cao [Baeckea frutescens] ở gầm giường người bệnh để trừ ám chướng tà ma.
Ở Việt Nam, không rõ phong tục xông và tắm tất niên bằng cỏ thơm có từ bao giờ và nguồn gốc ở đâu nhưng dân Bắc kỳ ai cũng biết về phong tục này. Những loại cây dùng tắm và xông tất niên đều có mùi thơm đặc trưng và đều là những vị thuốc tốt. Hương nhu [Ocimum tenuiflorum], Sả [Citronella grass], Lá bưởi [Citrus grandis], Mùi ta khô nguyên rễ [Coriandrum sativum], Cúc tần [Pluchea indica], Dã hương [Cinnamomum camphora]… quyện nhau, ngào ngạt, đặc trưng. Người Việt xưa dùng nước thơm đó tắm và xông hơi trong nhà để tẩy trừ các mệt nhọc bận rộn của những ngày giáp tết, tẩy trược khí của năm cũ để nghênh đón năm mới tinh khôi. Ngẫm đấy, người Việt coi đón năm mới là vô cùng hệ trọng – khởi đầu cho cả hành trình 12 tháng.
Nồng nàn ấy đã phôi pha bởi hương lá đã thay bằng đủ thứ dầu gội, sữa tắm, nước hoa công nghiệp độc hại uế trược. Tuy không còn phổ biến như xưa nhưng hương đặc trưng của nồi lá vẫn thơm trong hoài niệm của chúng ta. Gia đình tôi vẫn giữ nếp xông nhà bằng nồi nước lá thơm vào chiều tối 30 sau khi chúng tôi dạo chợ hoa lần cuối cùng và sửa soạn để cúng Giao thừa. Ngày thường, tôi xông nhà và cúng dường bằng tinh dầu, không khi nào dùng nước xịt phòng hay nước hoa công nghiệp. Trong những truyền thống tốt lành của dân tộc, tục nấu lá thơm tất niên trân quý như một nghi lễ “dọn mình” trước lúc xuân về.
Cảm ơn những người nông dân đã lưu giữ nguồn giống cỏ cây hữu ích, đã biết chế biến để việc xông tắm tất niên dễ dàng nơi đô thị, thái nhỏ thực vật cho vào túi lọc để đỡ tắc cống và dễ dọn rác. Nước vẫn xanh lục diệp tố, hương vẫn như thuở nào.
_______
Trong ảnh là tôi nấu nước tắm ngâm tất niên bằng túi lá khô, thơm như hương xưa, hoàn toàn không bị tắc ống lại giảm rác. Xông nhà cũng dùng túi lá khô đun sôi riu riu, hé vung.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Trái với chất béo động vật – là nơi tích độc tố trong chu trình sống, chất béo thực vật lại là tinh túy của thiên nhiên. Ngoài việc ép dầu, đốt cây khô, người xưa đã biết chưng cất hơi nước để thu được tinh dầu thơm. Các phần tử siêu nhỏ của tinh dầu dễ dàng lan toả trong không khí, thâm nhập vào da, phổi rồi qua mao mạch vào hệ thống tuần hoàn đem lại các tác dụng rõ rệt.
Tinh hoa từ các nền văn minh xưa mà loài người còn lưu giữ được cho thấy rằng, người Ai cập cổ đại đã coi tinh dầu mang năng lượng mạnh gấp 100 lần thảo dược và đã biết dùng hương thơm thực vật để giảm đau, chống viêm, tác động tới cảm xúc và thể chất, thư giãn hay kích thích, chữa trị, cúng dường, ướp thi thể…
Những nhà thông linh trong các bộ lạc cổ đều hiểu biết về tác động tinh tế của hương thực vật tới nhận thức và trực giác, chữa lành và cân bằng tâm lý. Người da đỏ châu Mỹ dùng cây Xô thơm [Salvia officinalis] – một loại gia vị nhiều tinh dầu, đốt lên để tẩy trược, trừ tà, trước và sau các buổi chữa bệnh, trong các lễ cúng Thần linh, trước một buổi thông linh.
Dân xứ băng tuyết thì tắm hơi nóng dùng cành lá chứa tinh dầu quật vào người. Người Nga tắm lá Sồi, Bạch dương, Khuynh diệp, Tùng, Tầm ma, Trăn, Anh đào dại, Kim ngân, Thanh lương trà, Phúc bồn tử cho các vấn đề khác nhau, ví dụ khi hành hôn, cô dâu chú rể có nghi lễ tắm lá.
Rất nhiều dân tộc xông cây Thanh cao [Baeckea frutescens] ở gầm giường người bệnh để trừ ám chướng tà ma.
Ở Việt Nam, không rõ phong tục xông và tắm tất niên bằng cỏ thơm có từ bao giờ và nguồn gốc ở đâu nhưng dân Bắc kỳ ai cũng biết về phong tục này. Những loại cây dùng tắm và xông tất niên đều có mùi thơm đặc trưng và đều là những vị thuốc tốt. Hương nhu [Ocimum tenuiflorum], Sả [Citronella grass], Lá bưởi [Citrus grandis], Mùi ta khô nguyên rễ [Coriandrum sativum], Cúc tần [Pluchea indica], Dã hương [Cinnamomum camphora]… quyện nhau, ngào ngạt, đặc trưng. Người Việt xưa dùng nước thơm đó tắm và xông hơi trong nhà để tẩy trừ các mệt nhọc bận rộn của những ngày giáp tết, tẩy trược khí của năm cũ để nghênh đón năm mới tinh khôi. Ngẫm đấy, người Việt coi đón năm mới là vô cùng hệ trọng – khởi đầu cho cả hành trình 12 tháng.
Nồng nàn ấy đã phôi pha bởi hương lá đã thay bằng đủ thứ dầu gội, sữa tắm, nước hoa công nghiệp độc hại uế trược. Tuy không còn phổ biến như xưa nhưng hương đặc trưng của nồi lá vẫn thơm trong hoài niệm của chúng ta. Gia đình tôi vẫn giữ nếp xông nhà bằng nồi nước lá thơm vào chiều tối 30 sau khi chúng tôi dạo chợ hoa lần cuối cùng và sửa soạn để cúng Giao thừa. Ngày thường, tôi xông nhà và cúng dường bằng tinh dầu, không khi nào dùng nước xịt phòng hay nước hoa công nghiệp. Trong những truyền thống tốt lành của dân tộc, tục nấu lá thơm tất niên trân quý như một nghi lễ “dọn mình” trước lúc xuân về.
Cảm ơn những người nông dân đã lưu giữ nguồn giống cỏ cây hữu ích, đã biết chế biến để việc xông tắm tất niên dễ dàng nơi đô thị, thái nhỏ thực vật cho vào túi lọc để đỡ tắc cống và dễ dọn rác. Nước vẫn xanh lục diệp tố, hương vẫn như thuở nào.
_______
Trong ảnh là tôi nấu nước tắm ngâm tất niên bằng túi lá khô, thơm như hương xưa, hoàn toàn không bị tắc ống lại giảm rác. Xông nhà cũng dùng túi lá khô đun sôi riu riu, hé vung.
Nguồn FB Cô Liên Hương
Tôi trở lại câu hỏi hôm qua https://t.cn/A6WvGDpu
_____
Lúc nhỏ tôi không chịu chào khách, chính xác là chỉ chào và nói chuyện với vài người mà tôi thân thiết còn lại thì không. Mỗi khi có khách tới nhà – mà gia đình tôi thường xuyên tiếp khách, tôi im lặng sang phòng khác hoặc lên mái nhà, với tôi thì điều đó rất bình thường, sau này lớn lên tôi mới biết trẻ con nhà khác phải khoanh tay chào, phải đứng yên để người lớn giới thiệu với khách, kể cả khi đứa trẻ không có mặt trong phòng khách, họ có thể gọi nó ra để ‘trình diện’, bắt nó hát hoặc ngâm thơ trước mặt khách bất kể nó có muốn hay không.
Lần đó, một sự kiện mà tới giờ tôi vẫn nhớ như in, tôi đang ngồi làm bản đố chữ trong phòng bác tôi thì mấy ông khách oang oang từ ở cầu thang, họ vồn vã như là trước đây thân lắm, tôi đứng lên ra khỏi phòng, họ đâu để ý tới tôi, có thể họ còn không nhìn thấy tôi, họ vẫn tiếp tục nói rất to, thế nhưng chính bác giữ tôi lại, giới thiệu tôi là con bố tôi mẹ tôi… những người kia ồ à, rồi giống hệt những người lớn khác họ nói, cháu xinh quá v.v… Tất nhiên là tôi im lặng, sau khi họ ngừng nói thì tôi đi ra hành lang, bác tôi kéo tai tôi và nói: “sao không chào lên một tiếng?” rồi quay vào tiếp khách.
Tôi không khóc nhưng kể với mẹ tôi việc bị kéo tai, mẹ tôi có lẽ sốc, mẹ đã nói chuyện căng thẳng với bác, bác phân bua rằng bác không làm tôi đau chút nào, rằng bác chỉ muốn nhắc tôi phải chào, rằng tôi được tự do quá, rằng trẻ con thông minh cũng cần phải được uốn nắn chứ không phải trăng tới rằm trăng tròn… còn mẹ tôi yêu cầu: có bất kỳ việc gì liên quan tới tôi thì phải nói cho mẹ tôi biết, những người nóng tính không thể làm việc với trẻ con.
Sau sự kiện đó, tôi vẫn như trước, nhưng tôi đã có một kinh nghiệm, tôi vào phòng riêng ngay khi chỉ thoáng nghe có tiếng người lạ, và việc đó làm giác quan trở nên nhạy bén tới mức khách còn chưa tới cổng tôi đã biết.
Rồi một lần và sau đó vài lần nữa, mẹ kể cho tôi nghe về nhiệm vụ của linh hồn, mẹ nói tôi đã đầu thai làm con bố mẹ ở một nơi rất xa, nếu có điều kiện là sẽ dẫn tôi thăm vùng đó, tới khi sắp sinh tôi, không hiểu vì lý do gì mà bố mẹ quyết định sang Việt Nam... Tôi lớn lên trong gia đình làm chính trị nên việc giao tiếp đông người là không thể tránh được. Vì linh hồn cần học việc giao tiếp nên tôi ở đây, nếu không thì tôi đã ở nơi nào đó khác.
Con chào ai đó không phải là “mở trái tim mình” mà chỉ là tín hiệu của loài người, khi người này nhìn thấy người khác. Con cứ ở trong rừng, trên mây hay nơi nào con muốn, đó là thế giới riêng của con, nhưng cùng lúc con phải sống với người khác trong thế giới chung nên cần hiểu các quy ước, điều này giống như cách đánh móc ơ hay viết chữ a. Mẹ ủng hộ con sáng tạo quy ước mới, trong khi chưa sáng tạo ra thì tạm dùng những thứ sẵn có [chả là trước đây tôi thích chữ ơ có 2 móc cân đối như râu bọ rùa nên tôi sáng tác như vậy, mẹ tôi vẫn đọc, chỉ khi đi học tôi phải viết như mẫu của cô giáo].
Nhưng tôi khó chịu quy ước, và mẹ tôi lại dẫn dụ nhiều thứ để tôi hiểu quy ước là đương nhiên. Tên của con cũng là một quy ước, bố mẹ bàn nhau một tên con trai, một tên con gái từ lúc chưa sinh con, khi đi khai sinh đưa tên đó cho người ta ghi giấy vậy là từ quy ước giữa bố mẹ thành quy ước với nhà nước. Bất cứ khi nào có hơn 1 là có quy ước – việc này làm tôi nghĩ nhiều lắm, nghĩ đặc cả não, nghĩ mãi cho tới khi tôi nhận ra là ngay cả trong một tâm trí của tôi cũng không phải một.
Hồi đó, mẹ cho tôi chép mấy câu chào và câu trả lời ra giấy, để tôi thấy là rất đơn giản. Nhờ đó, tôi biết thêm là, có khi câu hỏi “Ăn cơm chưa?”, “Đi đâu đấy?” lại là câu chào chứ không phải câu hỏi.
Mẹ tôi không xử lý tôi, không ép buộc tôi, không so bì tôi với bọn trẻ khoanh tay mà mở ra cho tôi những vấn đề để tôi tự do nghĩ, tự do chọn, tự do thực hành.
Nguồn fb cô Liên Hương
_____
Lúc nhỏ tôi không chịu chào khách, chính xác là chỉ chào và nói chuyện với vài người mà tôi thân thiết còn lại thì không. Mỗi khi có khách tới nhà – mà gia đình tôi thường xuyên tiếp khách, tôi im lặng sang phòng khác hoặc lên mái nhà, với tôi thì điều đó rất bình thường, sau này lớn lên tôi mới biết trẻ con nhà khác phải khoanh tay chào, phải đứng yên để người lớn giới thiệu với khách, kể cả khi đứa trẻ không có mặt trong phòng khách, họ có thể gọi nó ra để ‘trình diện’, bắt nó hát hoặc ngâm thơ trước mặt khách bất kể nó có muốn hay không.
Lần đó, một sự kiện mà tới giờ tôi vẫn nhớ như in, tôi đang ngồi làm bản đố chữ trong phòng bác tôi thì mấy ông khách oang oang từ ở cầu thang, họ vồn vã như là trước đây thân lắm, tôi đứng lên ra khỏi phòng, họ đâu để ý tới tôi, có thể họ còn không nhìn thấy tôi, họ vẫn tiếp tục nói rất to, thế nhưng chính bác giữ tôi lại, giới thiệu tôi là con bố tôi mẹ tôi… những người kia ồ à, rồi giống hệt những người lớn khác họ nói, cháu xinh quá v.v… Tất nhiên là tôi im lặng, sau khi họ ngừng nói thì tôi đi ra hành lang, bác tôi kéo tai tôi và nói: “sao không chào lên một tiếng?” rồi quay vào tiếp khách.
Tôi không khóc nhưng kể với mẹ tôi việc bị kéo tai, mẹ tôi có lẽ sốc, mẹ đã nói chuyện căng thẳng với bác, bác phân bua rằng bác không làm tôi đau chút nào, rằng bác chỉ muốn nhắc tôi phải chào, rằng tôi được tự do quá, rằng trẻ con thông minh cũng cần phải được uốn nắn chứ không phải trăng tới rằm trăng tròn… còn mẹ tôi yêu cầu: có bất kỳ việc gì liên quan tới tôi thì phải nói cho mẹ tôi biết, những người nóng tính không thể làm việc với trẻ con.
Sau sự kiện đó, tôi vẫn như trước, nhưng tôi đã có một kinh nghiệm, tôi vào phòng riêng ngay khi chỉ thoáng nghe có tiếng người lạ, và việc đó làm giác quan trở nên nhạy bén tới mức khách còn chưa tới cổng tôi đã biết.
Rồi một lần và sau đó vài lần nữa, mẹ kể cho tôi nghe về nhiệm vụ của linh hồn, mẹ nói tôi đã đầu thai làm con bố mẹ ở một nơi rất xa, nếu có điều kiện là sẽ dẫn tôi thăm vùng đó, tới khi sắp sinh tôi, không hiểu vì lý do gì mà bố mẹ quyết định sang Việt Nam... Tôi lớn lên trong gia đình làm chính trị nên việc giao tiếp đông người là không thể tránh được. Vì linh hồn cần học việc giao tiếp nên tôi ở đây, nếu không thì tôi đã ở nơi nào đó khác.
Con chào ai đó không phải là “mở trái tim mình” mà chỉ là tín hiệu của loài người, khi người này nhìn thấy người khác. Con cứ ở trong rừng, trên mây hay nơi nào con muốn, đó là thế giới riêng của con, nhưng cùng lúc con phải sống với người khác trong thế giới chung nên cần hiểu các quy ước, điều này giống như cách đánh móc ơ hay viết chữ a. Mẹ ủng hộ con sáng tạo quy ước mới, trong khi chưa sáng tạo ra thì tạm dùng những thứ sẵn có [chả là trước đây tôi thích chữ ơ có 2 móc cân đối như râu bọ rùa nên tôi sáng tác như vậy, mẹ tôi vẫn đọc, chỉ khi đi học tôi phải viết như mẫu của cô giáo].
Nhưng tôi khó chịu quy ước, và mẹ tôi lại dẫn dụ nhiều thứ để tôi hiểu quy ước là đương nhiên. Tên của con cũng là một quy ước, bố mẹ bàn nhau một tên con trai, một tên con gái từ lúc chưa sinh con, khi đi khai sinh đưa tên đó cho người ta ghi giấy vậy là từ quy ước giữa bố mẹ thành quy ước với nhà nước. Bất cứ khi nào có hơn 1 là có quy ước – việc này làm tôi nghĩ nhiều lắm, nghĩ đặc cả não, nghĩ mãi cho tới khi tôi nhận ra là ngay cả trong một tâm trí của tôi cũng không phải một.
Hồi đó, mẹ cho tôi chép mấy câu chào và câu trả lời ra giấy, để tôi thấy là rất đơn giản. Nhờ đó, tôi biết thêm là, có khi câu hỏi “Ăn cơm chưa?”, “Đi đâu đấy?” lại là câu chào chứ không phải câu hỏi.
Mẹ tôi không xử lý tôi, không ép buộc tôi, không so bì tôi với bọn trẻ khoanh tay mà mở ra cho tôi những vấn đề để tôi tự do nghĩ, tự do chọn, tự do thực hành.
Nguồn fb cô Liên Hương
✋热门推荐