Chuyện Thờ Cúng
Hỏi: Cô ơi, lúc cúng thì làm gì trước, làm gì sau?
Trả lời:
CHUẨN BỊ:
- Việc đầu tiên là làm sạch ban thờ bằng khăn và nước sạch.
- Lau bóng, khơi bấc đèn thờ, châm dầu. Thời cổ, bàn thờ chỉ có 1 đèn.
- Nếu cúng các vị thuốc thảo dược thì cần nấu thuốc trước trước hoặc hâm nóng thuốc, trong khi nấu thuốc thì lau ban thờ.
- Vừa làm việc vừa trì Tịnh thủ chân Ngôn tẩy trược, làm sạch tay.
- Cắm hoa vào lọ, hoặc bày hoa đĩa lên ban, hoặc thả hoa cúng nước, hoặc dâng chậu hoa cảnh trên đôn cạnh ban thờ.
- Bày lễ vật bánh trái, cả đồ chúc thực và đồ bày [nếu có]. Cần phân biệt đồ chúc thực và đồ bày trang trí bàn thờ. Đồ trang trí bày trên ban thì Bưởi, Phật thủ, Thị, Cau… có thể bày vài ngày cho ban thờ ấm cúng sinh động, không sợ chuột bọ. Đồ cúng chúc thực như xôi lạc, chè kho, bánh… cúng xong dọn ngay. Dù không thờ Phật, khi muốn dâng cỗ mặn phải đặt ở một chiếc bàn phụ thấp hơn hẳn bàn thờ chính.
- Châm tinh dầu thơm vào bát hoặc máy xông rồi đun nước nóng.
- Hãm trà.
- Mở rộng cửa.
NHẬP LỄ:
- Thắp đèn, châm nến trước tiên.
- Rót nước dâng lên ban.
- Rót trà dâng lên ban.
- Thắp hương [chú ý dâng nhang theo số lẻ thuộc dương, không bao giờ dâng 2 hoặc 4 nén].
- Khi châm lửa thì khẽ xoay cho hương cháy đều nếu thời tiết ẩm.
- Cắm hương ngay ngắn vào lư [ban thờ không nên đặt cao quá, lúc dâng hương phải với, dễ xiêu lệch nén nhang].
- Nếu có nhiều lư thì thắp lần lượt, dâng hương vào từng lư theo thứ tự chứ đừng châm một bó lớn. Nếu có nhiều bài vị nhưng chỉ có 1 lư thì chỉ dâng hương vào lư, không cắm ra bên ngoài.
KHẤN:
Khi cúng lễ tổ tiên phải khấn thổ công trước.
Kinh Tăng Nhất A Hàm – quyển 24 ghi lại 5 phúc báu của người thành tâm thờ cúng:
1. Đoan chính [tướng mạo đoan trang]
2. Hảo thinh [tiếng nói trong trẻo êm đềm]
3. Đa tài bảo
4. Sanh trưởng giả gia [tái sinh vào nhà quí phái].
5. Sanh thiện xứ thiên trượng [tái sinh vào các cõi lành].
_____
Thờ và cúng là hai phạm trù, thờ là nội hàm yêu thương, tôn trọng, kính ngưỡng trong tâm, cúng chỉ là lễ vật và lễ nghi bên ngoài. Động cơ nhân quyết định nghiệp báo, bởi vậy việc thờ cúng trọng ở tâm, thật tâm thì đạo ông bà – sự liên kết và cảm ứng theo tần số gen – có giá trị tâm linh.
Hỏi: Cô ơi, lúc cúng thì làm gì trước, làm gì sau?
Trả lời:
CHUẨN BỊ:
- Việc đầu tiên là làm sạch ban thờ bằng khăn và nước sạch.
- Lau bóng, khơi bấc đèn thờ, châm dầu. Thời cổ, bàn thờ chỉ có 1 đèn.
- Nếu cúng các vị thuốc thảo dược thì cần nấu thuốc trước trước hoặc hâm nóng thuốc, trong khi nấu thuốc thì lau ban thờ.
- Vừa làm việc vừa trì Tịnh thủ chân Ngôn tẩy trược, làm sạch tay.
- Cắm hoa vào lọ, hoặc bày hoa đĩa lên ban, hoặc thả hoa cúng nước, hoặc dâng chậu hoa cảnh trên đôn cạnh ban thờ.
- Bày lễ vật bánh trái, cả đồ chúc thực và đồ bày [nếu có]. Cần phân biệt đồ chúc thực và đồ bày trang trí bàn thờ. Đồ trang trí bày trên ban thì Bưởi, Phật thủ, Thị, Cau… có thể bày vài ngày cho ban thờ ấm cúng sinh động, không sợ chuột bọ. Đồ cúng chúc thực như xôi lạc, chè kho, bánh… cúng xong dọn ngay. Dù không thờ Phật, khi muốn dâng cỗ mặn phải đặt ở một chiếc bàn phụ thấp hơn hẳn bàn thờ chính.
- Châm tinh dầu thơm vào bát hoặc máy xông rồi đun nước nóng.
- Hãm trà.
- Mở rộng cửa.
NHẬP LỄ:
- Thắp đèn, châm nến trước tiên.
- Rót nước dâng lên ban.
- Rót trà dâng lên ban.
- Thắp hương [chú ý dâng nhang theo số lẻ thuộc dương, không bao giờ dâng 2 hoặc 4 nén].
- Khi châm lửa thì khẽ xoay cho hương cháy đều nếu thời tiết ẩm.
- Cắm hương ngay ngắn vào lư [ban thờ không nên đặt cao quá, lúc dâng hương phải với, dễ xiêu lệch nén nhang].
- Nếu có nhiều lư thì thắp lần lượt, dâng hương vào từng lư theo thứ tự chứ đừng châm một bó lớn. Nếu có nhiều bài vị nhưng chỉ có 1 lư thì chỉ dâng hương vào lư, không cắm ra bên ngoài.
KHẤN:
Khi cúng lễ tổ tiên phải khấn thổ công trước.
Kinh Tăng Nhất A Hàm – quyển 24 ghi lại 5 phúc báu của người thành tâm thờ cúng:
1. Đoan chính [tướng mạo đoan trang]
2. Hảo thinh [tiếng nói trong trẻo êm đềm]
3. Đa tài bảo
4. Sanh trưởng giả gia [tái sinh vào nhà quí phái].
5. Sanh thiện xứ thiên trượng [tái sinh vào các cõi lành].
_____
Thờ và cúng là hai phạm trù, thờ là nội hàm yêu thương, tôn trọng, kính ngưỡng trong tâm, cúng chỉ là lễ vật và lễ nghi bên ngoài. Động cơ nhân quyết định nghiệp báo, bởi vậy việc thờ cúng trọng ở tâm, thật tâm thì đạo ông bà – sự liên kết và cảm ứng theo tần số gen – có giá trị tâm linh.
Chuyện Thờ Cúng - Lien Huong
Hỏi: Trước khi các tôn giáo ngoại vào Việt Nam thì chúng ta theo đạo gì?
Rất xưa, cũng như nhiều tộc người khác, chúng ta thờ các vật tổ, về sau thì tín ngưỡng thờ cúng gia tiên đã trở thành gần như một tôn giáo phổ quát, thường gọi là ĐẠO ÔNG BÀ.
Một tôn giáo đầy đủ thường được xét ở mấy vấn đề:
- Có Giáo chủ
- Có Giáo lý
- Có Giáo đồ
- Có Giáo sỹ
- Có Giáo đường
- Có Giáo hội
- Có Nghi thức thờ phượng.
Đạo ông bà không phát triển theo mô thức trên, nhưng ăn sâu trong tâm thức người Việt với hình thức thờ phượng là lễ hiến cúng cho tiền nhân đã khuất thể hiện mối tri ân GIAO CẢM HUYẾT THỐNG.
Nhiều dân tộc có tục tưởng nhớ người đã khuất, nhưng trong tâm thức Việt thì nó là một điều đặc biệt. Người Việt rất coi trọng việc cúng tế vào ngày tang và kỷ niệm ngày mất gọi là giỗ và “giáo đường” là ban thờ gia tiên.
Một nét đặc biệt, người Việt phân biệt “ông Vải” chỉ về gia tiên nói chung, “ông Mãnh” chỉ về gia tiên mất lúc còn trẻ chưa thành thân và việc cúng khấn cũng khác.
Nét đặc biệt nữa là, không chỉ vào ngày giỗ mà việc hiến cúng cho tổ tiên còn được thực hiện vào các ngày Sóc, Vọng trong tháng âm lịch và các Tết Mùa đặc trưng nông nghiệp lúa nước như tết Nguyên đán, tết Nguyên tiêu, tết Hàn thực, tết Trung thu, tết Cơm mới.
Không chỉ như vậy, khi trong nhà có việc trọng hệ như sinh con, cưới hỏi, làm nhà, đi xa, thi cử, đỗ đạt, ốm lâu không khỏi, tai nạn bất ngờ... người Việt đều dâng hương kính cáo tổ tiên, cầu xin tổ tiên phù hộ hoặc để tạ ơn.
Vì không có hệ thống giáo lý quy chuẩn nên mỗi vùng, mỗi gia tộc, mỗi gia đình thờ và cúng có khác nhau. Các gia tộc lớn có từ đường chung và có nhà thờ chi họ, hằng năm con cháu đóng góp duy tu và tế theo mùa, cách hai ba năm có kỳ đại tế, gia đình tôi bây giờ vẫn duy trì như vậy [có 4 vấn Xuân Hạ Thu Đông, mỗi 3 năm có đại tế], ở nghĩa trang dòng họ thì có lễ chặp mả hằng năm.
Một điều đặc biệt khác là người Việt dung hòa việc thờ cúng gia tiên đã mất với việc thờ các chư thần bản thổ – đây là một nét đặc sắc. Người ta quan niệm đất trời có chư Thiên chư Thần quản trị, người ở phải xin phép nên tôn nhang thờ.
Tín ngưỡng thờ cúng gia tiên là nét văn hóa trân quý của người Việt.
Đề tài này mà nói thì dài và nhiều điều thú vị, tôi tạm dừng ở đây.
_____
Mai Trung Thứ, lụa “Grand Mère”.
Hỏi: Trước khi các tôn giáo ngoại vào Việt Nam thì chúng ta theo đạo gì?
Rất xưa, cũng như nhiều tộc người khác, chúng ta thờ các vật tổ, về sau thì tín ngưỡng thờ cúng gia tiên đã trở thành gần như một tôn giáo phổ quát, thường gọi là ĐẠO ÔNG BÀ.
Một tôn giáo đầy đủ thường được xét ở mấy vấn đề:
- Có Giáo chủ
- Có Giáo lý
- Có Giáo đồ
- Có Giáo sỹ
- Có Giáo đường
- Có Giáo hội
- Có Nghi thức thờ phượng.
Đạo ông bà không phát triển theo mô thức trên, nhưng ăn sâu trong tâm thức người Việt với hình thức thờ phượng là lễ hiến cúng cho tiền nhân đã khuất thể hiện mối tri ân GIAO CẢM HUYẾT THỐNG.
Nhiều dân tộc có tục tưởng nhớ người đã khuất, nhưng trong tâm thức Việt thì nó là một điều đặc biệt. Người Việt rất coi trọng việc cúng tế vào ngày tang và kỷ niệm ngày mất gọi là giỗ và “giáo đường” là ban thờ gia tiên.
Một nét đặc biệt, người Việt phân biệt “ông Vải” chỉ về gia tiên nói chung, “ông Mãnh” chỉ về gia tiên mất lúc còn trẻ chưa thành thân và việc cúng khấn cũng khác.
Nét đặc biệt nữa là, không chỉ vào ngày giỗ mà việc hiến cúng cho tổ tiên còn được thực hiện vào các ngày Sóc, Vọng trong tháng âm lịch và các Tết Mùa đặc trưng nông nghiệp lúa nước như tết Nguyên đán, tết Nguyên tiêu, tết Hàn thực, tết Trung thu, tết Cơm mới.
Không chỉ như vậy, khi trong nhà có việc trọng hệ như sinh con, cưới hỏi, làm nhà, đi xa, thi cử, đỗ đạt, ốm lâu không khỏi, tai nạn bất ngờ... người Việt đều dâng hương kính cáo tổ tiên, cầu xin tổ tiên phù hộ hoặc để tạ ơn.
Vì không có hệ thống giáo lý quy chuẩn nên mỗi vùng, mỗi gia tộc, mỗi gia đình thờ và cúng có khác nhau. Các gia tộc lớn có từ đường chung và có nhà thờ chi họ, hằng năm con cháu đóng góp duy tu và tế theo mùa, cách hai ba năm có kỳ đại tế, gia đình tôi bây giờ vẫn duy trì như vậy [có 4 vấn Xuân Hạ Thu Đông, mỗi 3 năm có đại tế], ở nghĩa trang dòng họ thì có lễ chặp mả hằng năm.
Một điều đặc biệt khác là người Việt dung hòa việc thờ cúng gia tiên đã mất với việc thờ các chư thần bản thổ – đây là một nét đặc sắc. Người ta quan niệm đất trời có chư Thiên chư Thần quản trị, người ở phải xin phép nên tôn nhang thờ.
Tín ngưỡng thờ cúng gia tiên là nét văn hóa trân quý của người Việt.
Đề tài này mà nói thì dài và nhiều điều thú vị, tôi tạm dừng ở đây.
_____
Mai Trung Thứ, lụa “Grand Mère”.
Chuyện Thờ Cúng - Liên Hương
HỎI: Nghèo, mắc bệnh trong kiếp này có liên quan gì đến các nhân trong đời trước?
ĐÁP: Phải phân biệt sự khác nhau giữa đời sống cõi Nhân loại, đời sống cõi Thiên và cõi Địa ngục. Chúng sinh Chư thiên và chúng sinh Địa ngục có nguồn sống nhờ quả của nghiệp một cách tự nhiên; chúng sinh Nhân loại có nguồn sống không chỉ nghiệp còn mà nhờ tinh tấn và trí tuệ hiện tại. Tức là 3 lực: nghiệp lực, tinh tấn lực, trí tuệ lực tác động đến an sinh đời người.
Nếu một người có nghiệp lực chín muồi để được giàu sang, có đủ tinh tấn và trí tuệ sẽ rất giàu và thọ hưởng của cải. Nếu một người chỉ có nghiệp lực mà không có đủ tinh tấn và trí tuệ, cho dù họ được thừa kế của cải chăng nữa thì cuối cùng họ cũng sẽ tán gia bại sản. Nếu một người không có nghiệp lực chín muồi cho sự giàu có nhưng họ tinh tấn và trí tuệ để kiếm tiền, họ vẫn hưởng mức sống thoải mái. Bởi thế tinh tấn và trí tuệ quan trọng hơn nghiệp lực.
Có 4 nguyên nhân bệnh:
- Nghiệp lực
- Tâm
- Yếu tố lửa [bao gồm thời khí]
- Vật thực [ăn uống]
Không phải tất cả bệnh đều do nghiệp lực gây ra. Khi có nhân thì có quả, khi không có nhân sẽ không có quả. Nghiệp lực chín muồi tạo ra quả của nó, quả đó là cố định và không thể thay đổi được, nhưng nếu một nghiệp lực chưa chín muồi, quả của nó không cố định và do đó có thể thay đổi được.
Tôn-giả Mục-kiền-liên Moggallana là một ví dụ. Nghiệp lực xấu giết cha mẹ trong một tiền kiếp đã chín muồi trước khi ngài nhập Vô dư Niết bàn parinibbāna, vì thế ngài đã bị đánh tới mức tất cả xương đều nát thành miếng vụn. Mặc dù đã trở thành một bậc A-la-hán nhưng không thể thay đổi được quả xấu đó. Song, vì ngài đã tận diệt hết mọi phiền não, nên tất cả những nghiệp lực khác [ngoại trừ nghiệp đã chín muồi trong kiếp đó] không còn có thể cho quả được nữa. Khi nhập parinibbāna, ngài đã thoát khỏi vòng luân hồi.
_____
Trích: “Vấn đáp với Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw”.
HỎI: Nghèo, mắc bệnh trong kiếp này có liên quan gì đến các nhân trong đời trước?
ĐÁP: Phải phân biệt sự khác nhau giữa đời sống cõi Nhân loại, đời sống cõi Thiên và cõi Địa ngục. Chúng sinh Chư thiên và chúng sinh Địa ngục có nguồn sống nhờ quả của nghiệp một cách tự nhiên; chúng sinh Nhân loại có nguồn sống không chỉ nghiệp còn mà nhờ tinh tấn và trí tuệ hiện tại. Tức là 3 lực: nghiệp lực, tinh tấn lực, trí tuệ lực tác động đến an sinh đời người.
Nếu một người có nghiệp lực chín muồi để được giàu sang, có đủ tinh tấn và trí tuệ sẽ rất giàu và thọ hưởng của cải. Nếu một người chỉ có nghiệp lực mà không có đủ tinh tấn và trí tuệ, cho dù họ được thừa kế của cải chăng nữa thì cuối cùng họ cũng sẽ tán gia bại sản. Nếu một người không có nghiệp lực chín muồi cho sự giàu có nhưng họ tinh tấn và trí tuệ để kiếm tiền, họ vẫn hưởng mức sống thoải mái. Bởi thế tinh tấn và trí tuệ quan trọng hơn nghiệp lực.
Có 4 nguyên nhân bệnh:
- Nghiệp lực
- Tâm
- Yếu tố lửa [bao gồm thời khí]
- Vật thực [ăn uống]
Không phải tất cả bệnh đều do nghiệp lực gây ra. Khi có nhân thì có quả, khi không có nhân sẽ không có quả. Nghiệp lực chín muồi tạo ra quả của nó, quả đó là cố định và không thể thay đổi được, nhưng nếu một nghiệp lực chưa chín muồi, quả của nó không cố định và do đó có thể thay đổi được.
Tôn-giả Mục-kiền-liên Moggallana là một ví dụ. Nghiệp lực xấu giết cha mẹ trong một tiền kiếp đã chín muồi trước khi ngài nhập Vô dư Niết bàn parinibbāna, vì thế ngài đã bị đánh tới mức tất cả xương đều nát thành miếng vụn. Mặc dù đã trở thành một bậc A-la-hán nhưng không thể thay đổi được quả xấu đó. Song, vì ngài đã tận diệt hết mọi phiền não, nên tất cả những nghiệp lực khác [ngoại trừ nghiệp đã chín muồi trong kiếp đó] không còn có thể cho quả được nữa. Khi nhập parinibbāna, ngài đã thoát khỏi vòng luân hồi.
_____
Trích: “Vấn đáp với Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw”.
✋热门推荐