#历史[超话]##韩国[超话]#
[Tổng quan Sơ kì Triều Tiên]
Võ thần dưới triều Cao Ly là Lý Thành Quế mượn cơ hội chinh phạt Liêu Đông (Trung Quốc) vào năm 1388 đã tiến hành đảo chính và giành lấy chính quyền. Sau khi lần lượt đưa Xương Vương (창왕,昌王) và Cung Nhượng Vương (공양왕,恭讓王) lên vương vị rồi phế họ thì Lý Thành Quế đã thâu tóm được chính quyền và quân quyền rồi tiếp tục tiến hành cải cách trên mọi mặt, nắm cả quyền lực về kinh tế. Tiếp đến con trai Lý Phương Viễn (이방원,李芳遠) của Lý Thành Quế trừ khử được Trịnh Mộng Châu (정몽주,鄭夢周) chủ trương duy trì chính quyền Cao Ly với Cao Ly Cải cách luận (고려 개혁론,高麗 改革論). Tháng 7 năm 1392, Lý Thành Quế đã buộc Cung Nhượng Vương thoái vị rồi tự lập ra một triều đại mới trở thành Triều Tiên Thái Tổ. Năm 1393, xin phép nhà Minh (Trung Quốc) đổi Quốc hiệu là Triều Tiên và do lòng dân có ác cảm với Khai Kinh. Vì vậy, ngài đã dời đô đến Hán Dương và thực hiện nhiều cải cách.
Trong thời gian tại vị, Thái Tổ hầu như đã trao quyền lực cho các khai quốc công thần thông qua việc thành lập Công Thần Đô Giám (공신도감,功臣都監). Tuy nhiên người mà không lộng quyền trong số những khai quốc công thần của Triều Tiên thì có Lý Phương Viễn lại là người đã gây ra sự biến “Vương tử chi loạn lần 1” (제1차왕자의난,第1次王子의亂) nhằm để trừ khử Trịnh Đạo Truyền (정도전,鄭道傳) rồi thâu tóm chính quyền mặc dù ngoài mặt là nhường vị trí Đại vương cho anh mình là Vĩnh An Đại quân (영안대군,永安大君). Sau sự cố trên Thái Tổ đã thoái vị nhường ngôi cho con trai thứ hai của mình là Lý Phương Quả (이방과,李芳果), tức vua Định Tông. Nhưng 2 năm sau Lý Phương Viễn tiếp tục phát động sự biến tương tự là Vương tử chi loạn lần 2 (제2차왕자의난,第2次王子의亂). Sau sự kiện này Định Tông đã nhường ngôi cho Lý Phương Viễn lên ngôi trở thành vua Thái Tông. Trong những năm tại vị Thái Tông đã hoàn thiện chế độ quan liêu để đẩy mạnh vương quyền và xây dựng một thể chế thống trị lấy vua làm trung tâm.
Đến thời của Thế Tông Đại vương tại vị từ năm 1418 đến năm 1450 là một thời kì chính trị ổn định nên ông đã tập trung vào phát triển ở mọi mặt như giáo dục, quân sự, khoa học và văn hóa. Trong quân sự có thể kể đến việc duy trì sự yên bình ở biên giới phía bắc, vua Thế Tông đã xác định lại biên giới bằng Tứ quận lục trấn và thông qua việc chinh phạt Đối Mã Đảo (대마도,對馬島) đã ngăn cản được sự cướp bóc của quân Nhật. Còn về giáo dục ông đã thiết lập Tập Hiền Điện (집현전,集賢殿) là nơi nghiên cứu những chính sách để phát triển giáo dục và cũng là nơi sáng tạo ra Huấn Dân Chính Âm (훈민정음,訓民正音) - bảng chữ cái đầu tiên của người Triều Tiên, nền tảng của Hangeul (한글) ngày nay. Khoa học kỹ thuật sản sinh ra những phát minh mang tính đột phá đi đầu như dụng cụ đo lượng mưa Trắc vũ khí (측우기,測雨器) và bản in kim loại (금속활자,金屬活字) đầu tiên trên thế giới giúp cho thời bây giờ có thể in số lượng sách lớn truyền bá để giáo hóa dân chúng. Ngoài ra còn có đồng hồ mặt trời (해시계,日咎) và Hồn Thiên Nghi (혼천의,渾天儀) là dụng cụ dùng để quan sát thiên văn cũng là những phát mình vĩ đại dưới thời Thế Tông. Vua Thế Tông còn góp phần định hình lại âm nhạc truyền thống, âm nhạc dân tộc ở bán đảo Triều Tiên, sáng tạo ra Nhạc Tế Lễ Tông Miếu (종묘제례악,宗廟祭禮樂) phục vụ cho việc tế lễ trong Vương thất.
Ngoại giao trong thời kì này được áp dụng theo chính sách Sự Đại Giao Lân (사대교린,事大交隣) để thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Minh và các quốc gia lân cận. Theo đó Sự Đại là việc triều cống cho nhà Minh và nhận sách phong ban thưởng như là một nước chư hầu. Điểm này Triều Tiên đã có tính tự chủ và là một nước độc lập hơn so với Cao Ly vì thời điểm trước đó Cao Ly được xem là một nước thuộc địa của nhà Nguyên (Trung Quốc) không có nhiều quyền tự chủ. Thêm vào đó bằng việc thảo phạt tộc người Nữ Chân (여진족,女眞族) và chinh phạt Đối Mã Đảo thì Triều Tiên cũng đã bắt đầu nhận triều cống từ những tộc người Nữ Chân và Đối Mã Đảo như là một nước chư hầu, chính là Giao Lân.
Trong giai đoạn vua Thế Tông trị vì đã áp dụng “Nghị Chính Phủ thự sự chế” (의정부서사제,議政府署事制) giống với thời Thái Tổ, nghĩa là quyền lực không tập trung nhiều trong tay vua mà sẽ phân quyền cho cơ quan tối cao là Nghị Chính Phủ lo liệu các việc lớn nhỏ sau khi Tam Thừa Chính hội ý và Lục Tào Phán Thư có nghĩa vụ phải báo cáo công việc lên Nghị Chính Phủ và làm theo chỉ thị của cơ quan này. Nhưng sau khi Thủ Dương Đại Quân (수양대군,首陽大君) gây ra chính biến Quý Dậu Tĩnh Nạn (계유정난,癸酉靖難) để trừ khử Kim Tông Thụy (김종서,金宗瑞) là cố mệnh Đại thần phò tá Ấu Vương Đoan Tông và lưu đày hoặc thủ tiêu những Đại quân và Đại thần của Thế Tông. Cuối cùng là ép Đoan Tông uống thuốc độc tự tử ở tuổi 17 và giành lấy chính quyền để trở thành Thế Tổ. Nhằm nâng cao vương quyền trong tay, vua Thế Tổ đã bãi bỏ “Nghị Chính Phủ thự sự chế” mà thay bằng “Lục Tào trực khải chế” (육조직계제,六曹直啓制) mà vua Thái Tông đã từng chủ trương. Nghĩa là thay vì phải báo cáo và làm theo chỉ thị của Nghị Chính Phủ thì nay Lục Tào Phán Sự phải trực tiếp báo cáo lên Đại vương làm cho Nghị Chính Phủ chỉ hữu danh mà vô thực và làm tăng quyền lực trong tay vua. Trong quá trình này vua Thế Tổ cũng đã thanh trừng không ít các quan lại và bãi bỏ Tập Hiền Điện nơi nuôi dưỡng hiền tài cho quốc gia mà chủ yếu noi theo vua Thái Tông là tập trung vào việc thâu tóm quyền lực về tay vua và giới hạn quyền hành của bá quan. Nhưng đến thời cháu của Thế Tổ là vua Thành Tông lại khuyến khích Nho học nên đã cho thành lập Hoằng Văn Quán đảm nhận chức năng giống với Tập Hiền Điện từng bị bãi bỏ.
Đến cuối thế kỉ 15 thì Sĩ Lâm Phái ở các địa phương đã bắt đầu nuôi dưỡng thế lực trong chính trường nên Yến Sơn Quân đã thanh trừng một số lượng lớn Nho sĩ qua hai sự kiện lớn là Mậu Ngọ Sĩ Họa (무오사화,戊午士禍) và Giáp Tí Sĩ Họa (갑자사화,甲子士禍). Nhưng cuối cùng Yến Sơn Quân lại bị chính Sĩ Lâm Phái lật đổ thông qua chính biến Trung Tông Phản Chính và sau sự kiện đó mà Sĩ Lâm Phái đã có thể tiến thân ồ ạt vào chính quyền trung ương. Sự kiện Trung Tông Phản Chính cũng chính là mốc thời điểm kết thúc giai đoạn Sơ kì Triều Tiên – thời kì lập quốc và xây dựng nhà nước cũng như là hoàn thiện các thể chế, pháp luật.
___
Những điều cần biết:
1. Khai Kinh (개경,開京): ý chỉ Khai Thành (개성,開城) là kinh đô dưới thời Cao Ly nằm ở Tây Bắc tỉnh Kinh Kỳ.
2. Tứ quận lục trấn (사군육진,四郡六鎭): Tứ quận ý chỉ bốn quận nằm ở thượng lưu sông Áp Lục là Lữ Diên (여연,閭延), Từ Thành (자성,慈城), Mậu Xương (무창,茂昌) và Ngưu Nhuế (우예,虞芮). Lục trấn ý chỉ sáu trấn nằm ở hạ lưu sông Đầu Mãn là Chung Thành (종성,鐘城), Ổn Thành (온성,穩城), Hội Ninh (회령,會寧), Khánh Nguyên (경원,慶源), Khánh Hưng (경흥,慶興) và Phú Ninh (부령,富寧).
3. Tam Thừa Chính (삼승정,三承政): là ba chức quan đứng đầu Nghị Chính Phủ gồm Lãnh Nghị Chính (영의정,領議政), Tả Nghị Chính (좌의정,左議政) và Hữu Nghị Chính (우의정,右議政).
4. Phán Thư (판서,判書): là chức quan Chính nhị phẩm đứng đầu các tào. Tương đương chức Thượng thư (尙書).
___
Tài liệu tham khảo:
1. Wikipedia.
2. Triều Tiên Vương triều thực lục (조선왕조실록,조선왕조실록).
3. Đọc Triều Tiên Vương triều thực lục bằng một quyển (한권으로 읽는 조선왕조실록), Park Young Gyu, 2004.
[Tổng quan Sơ kì Triều Tiên]
Võ thần dưới triều Cao Ly là Lý Thành Quế mượn cơ hội chinh phạt Liêu Đông (Trung Quốc) vào năm 1388 đã tiến hành đảo chính và giành lấy chính quyền. Sau khi lần lượt đưa Xương Vương (창왕,昌王) và Cung Nhượng Vương (공양왕,恭讓王) lên vương vị rồi phế họ thì Lý Thành Quế đã thâu tóm được chính quyền và quân quyền rồi tiếp tục tiến hành cải cách trên mọi mặt, nắm cả quyền lực về kinh tế. Tiếp đến con trai Lý Phương Viễn (이방원,李芳遠) của Lý Thành Quế trừ khử được Trịnh Mộng Châu (정몽주,鄭夢周) chủ trương duy trì chính quyền Cao Ly với Cao Ly Cải cách luận (고려 개혁론,高麗 改革論). Tháng 7 năm 1392, Lý Thành Quế đã buộc Cung Nhượng Vương thoái vị rồi tự lập ra một triều đại mới trở thành Triều Tiên Thái Tổ. Năm 1393, xin phép nhà Minh (Trung Quốc) đổi Quốc hiệu là Triều Tiên và do lòng dân có ác cảm với Khai Kinh. Vì vậy, ngài đã dời đô đến Hán Dương và thực hiện nhiều cải cách.
Trong thời gian tại vị, Thái Tổ hầu như đã trao quyền lực cho các khai quốc công thần thông qua việc thành lập Công Thần Đô Giám (공신도감,功臣都監). Tuy nhiên người mà không lộng quyền trong số những khai quốc công thần của Triều Tiên thì có Lý Phương Viễn lại là người đã gây ra sự biến “Vương tử chi loạn lần 1” (제1차왕자의난,第1次王子의亂) nhằm để trừ khử Trịnh Đạo Truyền (정도전,鄭道傳) rồi thâu tóm chính quyền mặc dù ngoài mặt là nhường vị trí Đại vương cho anh mình là Vĩnh An Đại quân (영안대군,永安大君). Sau sự cố trên Thái Tổ đã thoái vị nhường ngôi cho con trai thứ hai của mình là Lý Phương Quả (이방과,李芳果), tức vua Định Tông. Nhưng 2 năm sau Lý Phương Viễn tiếp tục phát động sự biến tương tự là Vương tử chi loạn lần 2 (제2차왕자의난,第2次王子의亂). Sau sự kiện này Định Tông đã nhường ngôi cho Lý Phương Viễn lên ngôi trở thành vua Thái Tông. Trong những năm tại vị Thái Tông đã hoàn thiện chế độ quan liêu để đẩy mạnh vương quyền và xây dựng một thể chế thống trị lấy vua làm trung tâm.
Đến thời của Thế Tông Đại vương tại vị từ năm 1418 đến năm 1450 là một thời kì chính trị ổn định nên ông đã tập trung vào phát triển ở mọi mặt như giáo dục, quân sự, khoa học và văn hóa. Trong quân sự có thể kể đến việc duy trì sự yên bình ở biên giới phía bắc, vua Thế Tông đã xác định lại biên giới bằng Tứ quận lục trấn và thông qua việc chinh phạt Đối Mã Đảo (대마도,對馬島) đã ngăn cản được sự cướp bóc của quân Nhật. Còn về giáo dục ông đã thiết lập Tập Hiền Điện (집현전,集賢殿) là nơi nghiên cứu những chính sách để phát triển giáo dục và cũng là nơi sáng tạo ra Huấn Dân Chính Âm (훈민정음,訓民正音) - bảng chữ cái đầu tiên của người Triều Tiên, nền tảng của Hangeul (한글) ngày nay. Khoa học kỹ thuật sản sinh ra những phát minh mang tính đột phá đi đầu như dụng cụ đo lượng mưa Trắc vũ khí (측우기,測雨器) và bản in kim loại (금속활자,金屬活字) đầu tiên trên thế giới giúp cho thời bây giờ có thể in số lượng sách lớn truyền bá để giáo hóa dân chúng. Ngoài ra còn có đồng hồ mặt trời (해시계,日咎) và Hồn Thiên Nghi (혼천의,渾天儀) là dụng cụ dùng để quan sát thiên văn cũng là những phát mình vĩ đại dưới thời Thế Tông. Vua Thế Tông còn góp phần định hình lại âm nhạc truyền thống, âm nhạc dân tộc ở bán đảo Triều Tiên, sáng tạo ra Nhạc Tế Lễ Tông Miếu (종묘제례악,宗廟祭禮樂) phục vụ cho việc tế lễ trong Vương thất.
Ngoại giao trong thời kì này được áp dụng theo chính sách Sự Đại Giao Lân (사대교린,事大交隣) để thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Minh và các quốc gia lân cận. Theo đó Sự Đại là việc triều cống cho nhà Minh và nhận sách phong ban thưởng như là một nước chư hầu. Điểm này Triều Tiên đã có tính tự chủ và là một nước độc lập hơn so với Cao Ly vì thời điểm trước đó Cao Ly được xem là một nước thuộc địa của nhà Nguyên (Trung Quốc) không có nhiều quyền tự chủ. Thêm vào đó bằng việc thảo phạt tộc người Nữ Chân (여진족,女眞族) và chinh phạt Đối Mã Đảo thì Triều Tiên cũng đã bắt đầu nhận triều cống từ những tộc người Nữ Chân và Đối Mã Đảo như là một nước chư hầu, chính là Giao Lân.
Trong giai đoạn vua Thế Tông trị vì đã áp dụng “Nghị Chính Phủ thự sự chế” (의정부서사제,議政府署事制) giống với thời Thái Tổ, nghĩa là quyền lực không tập trung nhiều trong tay vua mà sẽ phân quyền cho cơ quan tối cao là Nghị Chính Phủ lo liệu các việc lớn nhỏ sau khi Tam Thừa Chính hội ý và Lục Tào Phán Thư có nghĩa vụ phải báo cáo công việc lên Nghị Chính Phủ và làm theo chỉ thị của cơ quan này. Nhưng sau khi Thủ Dương Đại Quân (수양대군,首陽大君) gây ra chính biến Quý Dậu Tĩnh Nạn (계유정난,癸酉靖難) để trừ khử Kim Tông Thụy (김종서,金宗瑞) là cố mệnh Đại thần phò tá Ấu Vương Đoan Tông và lưu đày hoặc thủ tiêu những Đại quân và Đại thần của Thế Tông. Cuối cùng là ép Đoan Tông uống thuốc độc tự tử ở tuổi 17 và giành lấy chính quyền để trở thành Thế Tổ. Nhằm nâng cao vương quyền trong tay, vua Thế Tổ đã bãi bỏ “Nghị Chính Phủ thự sự chế” mà thay bằng “Lục Tào trực khải chế” (육조직계제,六曹直啓制) mà vua Thái Tông đã từng chủ trương. Nghĩa là thay vì phải báo cáo và làm theo chỉ thị của Nghị Chính Phủ thì nay Lục Tào Phán Sự phải trực tiếp báo cáo lên Đại vương làm cho Nghị Chính Phủ chỉ hữu danh mà vô thực và làm tăng quyền lực trong tay vua. Trong quá trình này vua Thế Tổ cũng đã thanh trừng không ít các quan lại và bãi bỏ Tập Hiền Điện nơi nuôi dưỡng hiền tài cho quốc gia mà chủ yếu noi theo vua Thái Tông là tập trung vào việc thâu tóm quyền lực về tay vua và giới hạn quyền hành của bá quan. Nhưng đến thời cháu của Thế Tổ là vua Thành Tông lại khuyến khích Nho học nên đã cho thành lập Hoằng Văn Quán đảm nhận chức năng giống với Tập Hiền Điện từng bị bãi bỏ.
Đến cuối thế kỉ 15 thì Sĩ Lâm Phái ở các địa phương đã bắt đầu nuôi dưỡng thế lực trong chính trường nên Yến Sơn Quân đã thanh trừng một số lượng lớn Nho sĩ qua hai sự kiện lớn là Mậu Ngọ Sĩ Họa (무오사화,戊午士禍) và Giáp Tí Sĩ Họa (갑자사화,甲子士禍). Nhưng cuối cùng Yến Sơn Quân lại bị chính Sĩ Lâm Phái lật đổ thông qua chính biến Trung Tông Phản Chính và sau sự kiện đó mà Sĩ Lâm Phái đã có thể tiến thân ồ ạt vào chính quyền trung ương. Sự kiện Trung Tông Phản Chính cũng chính là mốc thời điểm kết thúc giai đoạn Sơ kì Triều Tiên – thời kì lập quốc và xây dựng nhà nước cũng như là hoàn thiện các thể chế, pháp luật.
___
Những điều cần biết:
1. Khai Kinh (개경,開京): ý chỉ Khai Thành (개성,開城) là kinh đô dưới thời Cao Ly nằm ở Tây Bắc tỉnh Kinh Kỳ.
2. Tứ quận lục trấn (사군육진,四郡六鎭): Tứ quận ý chỉ bốn quận nằm ở thượng lưu sông Áp Lục là Lữ Diên (여연,閭延), Từ Thành (자성,慈城), Mậu Xương (무창,茂昌) và Ngưu Nhuế (우예,虞芮). Lục trấn ý chỉ sáu trấn nằm ở hạ lưu sông Đầu Mãn là Chung Thành (종성,鐘城), Ổn Thành (온성,穩城), Hội Ninh (회령,會寧), Khánh Nguyên (경원,慶源), Khánh Hưng (경흥,慶興) và Phú Ninh (부령,富寧).
3. Tam Thừa Chính (삼승정,三承政): là ba chức quan đứng đầu Nghị Chính Phủ gồm Lãnh Nghị Chính (영의정,領議政), Tả Nghị Chính (좌의정,左議政) và Hữu Nghị Chính (우의정,右議政).
4. Phán Thư (판서,判書): là chức quan Chính nhị phẩm đứng đầu các tào. Tương đương chức Thượng thư (尙書).
___
Tài liệu tham khảo:
1. Wikipedia.
2. Triều Tiên Vương triều thực lục (조선왕조실록,조선왕조실록).
3. Đọc Triều Tiên Vương triều thực lục bằng một quyển (한권으로 읽는 조선왕조실록), Park Young Gyu, 2004.
tạm biệt cô bạn đồng hành cùng năm 2019
hãy từ bỏ những thứ không đáng, phải mạnh dạn thử những gì mới mẻ
-học tốt tiếng trung
-nuôi tóc dài ngang lưng
-giảm cân cải thiện số đo
-có một việc parttime tốt
-tham gia những hoạt động để năng nổ hơn
-đặc biệt phải giữ gìn tình cảm
cố lên HN
trust "you" in 2020
hãy từ bỏ những thứ không đáng, phải mạnh dạn thử những gì mới mẻ
-học tốt tiếng trung
-nuôi tóc dài ngang lưng
-giảm cân cải thiện số đo
-có một việc parttime tốt
-tham gia những hoạt động để năng nổ hơn
-đặc biệt phải giữ gìn tình cảm
cố lên HN
trust "you" in 2020
#历史[超话]##韩国[超话]##东亚文化圈#
[Phục sức của Đại vương]
Vào mấy hôm trước chúng mình có chia sẽ có một tác giả so sánh hình ảnh giữa Đại Hàn và Nguyễn Triều. Tại sao chúng mình lại nói là Đại Hàn mà không phải là Triều Tiên vì vào năm 1897 vua Cao Tông đã xưng đế để thoát ly quan hệ với nhà Thanh. Mà hình ảnh của tác giả lấy để so sánh lại chính là thời kì này nên chúng mình mới gọi là Đại Hàn. Mấu chốt ở đây là tác giả lấy hình ảnh và so sánh chức năng có nhiều chỗ không đúng với chức năng của trang phục đó. Vì thế chúng mình sẽ tổng hợp một số trang phục chính của Đại vương trong bài ngày hôm nay. Còn chi tiết các trang phục trong tương lai chúng mình sẽ có các bài nói rõ hơn sự thay đổi ở mỗi thời kì.
Triều Tiên lấy nền tảng là Tân Nho học và dựa vào nền tảng của Chu Tử học nhà Tống đã cho ra các Lễ điển quy định về trang phục của Vương thất. Theo đó Ngũ Lễ nghi (오례의,五禮儀) được biên soạn đầu tiên dưới triều Thế Tông, tiếp hoàn thiện tiếp thành Quốc triều Ngũ Lễ nghi (국조오례의,國朝五禮儀) dưới triều Thành Tông và bổ sung thêm trong Quốc triều tục Ngũ lễ nghi (국조속오례의,國朝續五禮儀). Ngũ lễ gồm có Cát lễ (길례,吉禮), Gia lễ (가례,嘉禮), Tân lễ (빈례,賓禮), Quân lễ (군례,軍禮) và Hung lễ (흉례,凶禮). Trang phục Đại vương như sau:
1. Miện phục (면복,冕服): được xem là Triều cận phụng tự chi phục (조근봉사지복,朝覲奉祀之服) ý mặc khi nhận tham bái của quần thân trong các buổi tế lễ dịp Chính triều (정조,正朝), Đông chí (동지,冬至), Tế Xã Tắc (사직,社稷), Tế Tông Miếu (종묘,宗廟) và Tế Tiên Nông (선농,先農),... nên còn gọi là Tế phục (제복,祭服). Ngoài ra những lúc Thụ sách (수책,受冊) – ý nói đăng cơ hoặc lễ sách phong Vương thế tử, Thân nghênh trong Gia lễ, Thánh tiết (성절,聖節) – ý chỉ sinh thần của Hoàng đế Trung Quốc hoặc sinh thần của Đại vương (탄일,誕日) thì cũng sẽ mặc Miện phục nên đây cũng được xem là Đại Lễ phục của Đại vương.
2. Triều phục (조복,朝服): hay còn gọi là Viễn du quán phục (원유관복,遠遊冠服) được xem là Thụ bồi thần triều kiến chi phục (수배신조현지복,受陪臣朝見之服) ý mặc khi nhận tham bái của quần thân trong các buổi Triều Kiến vào mùng một và ngày rằm hàng tháng tại Chánh điện trong Cung, các dịp dâng sớ lên Thiên Triều (진표,進表), các dịp nhận Chiếu chỉ từ Thiên Triều (조강,詔降), lễ sách phong Thế tử tần, lễ Nạp trưng trong Gia lễ. Trong lúc di giá mỗi khi xuất cung và hồi cung trong các dịp Tế lễ cũng sẽ mặc Triều phục nên Triều phục được xem là trang phục chỉ xếp sau Miện phục.
3. Thường phục (상복,常服): mặc vào ngày thường nên đây là trang phục mà hầu như các vị Đại vương đều mặc nó nhiều nhất trong đời. Còn được gọi là Dực thiện quán phục (익선관복,翼善冠服) được các Đại vương mặc chấp vụ hàng ngày được xem là Long bào với màu đỏ nên thường gọi là Hồng long bào (홍룡포,紅龍袍).
4. Trang phục quân đội: được chia ra làm ba loại gồm Quân phục (군복,軍服), Nhung phục (융복,戎服) và Giáp trụ (갑주,甲胄).
- Nhung phục với mũ Tông lạp (종립,鬃笠) và áo Thiếp lí (철릭,帖裏), trang phục thoải mái nên mặc trong lúc cưỡi ngựa săn bắn hoặc di giá trong các chuyến đến Lăng tẩm hay Viên tẩm. Giống với Triều phục là trang phục mặt khi xuất cung và hồi cung trong các dịp di giá ra ngoài liên quan đến quân sự.
- Quân phục với áo Hiệp tụ (협수,狹袖) ấy chỉ tay áo nhỏ và mặc thêm một chiến áo dạng bối tử (조끼) mặc trong những lúc di hành đến những nơi xa hay lúc xảy ra chiến sự. Xuất hiện từ thời Tuyên Tổ được dùng chung với Nhung phục và còn gọi là Cụ quân phục (구군복,具軍服).
- Giáp trụ với áo giáp và mũ giáp được mặc trong các nghi lễ quân sự quan trọng, các buổi tế Quan Vũ.
5. Bình thường phục (평상복,平常服): không khác gì với trang phục của các Sĩ đại phu. Trang phục này được mặc khi Đại vương tiên phong trong việc tiết kiệm để cho bách tính noi theo thể hiện giá trị căn bản trong cách trị quốc của các vị Đại vương.
___
Tài liệu tham khảo:
1. Triều Tiên Vương triều thực lục (조선왕조실록,朝鮮王朝實錄).
2. Điển luật thông bổ (전률통보,典律通補).
3. Tổng quan văn hóa Vương thất Triều Tiên tập 8: Thời trang trong cung dưới thời Triều Tiên (조선왕실문화총서8: 조선시대 궁중패션), Park Ga Young, 2017.
4. Ngũ lễ, Nghi lễ quốc gia dưới thời Triều Tiên (조선의 국가의례, 오례), Bảo tàng Cố cung quốc gia, 2015.
[Phục sức của Đại vương]
Vào mấy hôm trước chúng mình có chia sẽ có một tác giả so sánh hình ảnh giữa Đại Hàn và Nguyễn Triều. Tại sao chúng mình lại nói là Đại Hàn mà không phải là Triều Tiên vì vào năm 1897 vua Cao Tông đã xưng đế để thoát ly quan hệ với nhà Thanh. Mà hình ảnh của tác giả lấy để so sánh lại chính là thời kì này nên chúng mình mới gọi là Đại Hàn. Mấu chốt ở đây là tác giả lấy hình ảnh và so sánh chức năng có nhiều chỗ không đúng với chức năng của trang phục đó. Vì thế chúng mình sẽ tổng hợp một số trang phục chính của Đại vương trong bài ngày hôm nay. Còn chi tiết các trang phục trong tương lai chúng mình sẽ có các bài nói rõ hơn sự thay đổi ở mỗi thời kì.
Triều Tiên lấy nền tảng là Tân Nho học và dựa vào nền tảng của Chu Tử học nhà Tống đã cho ra các Lễ điển quy định về trang phục của Vương thất. Theo đó Ngũ Lễ nghi (오례의,五禮儀) được biên soạn đầu tiên dưới triều Thế Tông, tiếp hoàn thiện tiếp thành Quốc triều Ngũ Lễ nghi (국조오례의,國朝五禮儀) dưới triều Thành Tông và bổ sung thêm trong Quốc triều tục Ngũ lễ nghi (국조속오례의,國朝續五禮儀). Ngũ lễ gồm có Cát lễ (길례,吉禮), Gia lễ (가례,嘉禮), Tân lễ (빈례,賓禮), Quân lễ (군례,軍禮) và Hung lễ (흉례,凶禮). Trang phục Đại vương như sau:
1. Miện phục (면복,冕服): được xem là Triều cận phụng tự chi phục (조근봉사지복,朝覲奉祀之服) ý mặc khi nhận tham bái của quần thân trong các buổi tế lễ dịp Chính triều (정조,正朝), Đông chí (동지,冬至), Tế Xã Tắc (사직,社稷), Tế Tông Miếu (종묘,宗廟) và Tế Tiên Nông (선농,先農),... nên còn gọi là Tế phục (제복,祭服). Ngoài ra những lúc Thụ sách (수책,受冊) – ý nói đăng cơ hoặc lễ sách phong Vương thế tử, Thân nghênh trong Gia lễ, Thánh tiết (성절,聖節) – ý chỉ sinh thần của Hoàng đế Trung Quốc hoặc sinh thần của Đại vương (탄일,誕日) thì cũng sẽ mặc Miện phục nên đây cũng được xem là Đại Lễ phục của Đại vương.
2. Triều phục (조복,朝服): hay còn gọi là Viễn du quán phục (원유관복,遠遊冠服) được xem là Thụ bồi thần triều kiến chi phục (수배신조현지복,受陪臣朝見之服) ý mặc khi nhận tham bái của quần thân trong các buổi Triều Kiến vào mùng một và ngày rằm hàng tháng tại Chánh điện trong Cung, các dịp dâng sớ lên Thiên Triều (진표,進表), các dịp nhận Chiếu chỉ từ Thiên Triều (조강,詔降), lễ sách phong Thế tử tần, lễ Nạp trưng trong Gia lễ. Trong lúc di giá mỗi khi xuất cung và hồi cung trong các dịp Tế lễ cũng sẽ mặc Triều phục nên Triều phục được xem là trang phục chỉ xếp sau Miện phục.
3. Thường phục (상복,常服): mặc vào ngày thường nên đây là trang phục mà hầu như các vị Đại vương đều mặc nó nhiều nhất trong đời. Còn được gọi là Dực thiện quán phục (익선관복,翼善冠服) được các Đại vương mặc chấp vụ hàng ngày được xem là Long bào với màu đỏ nên thường gọi là Hồng long bào (홍룡포,紅龍袍).
4. Trang phục quân đội: được chia ra làm ba loại gồm Quân phục (군복,軍服), Nhung phục (융복,戎服) và Giáp trụ (갑주,甲胄).
- Nhung phục với mũ Tông lạp (종립,鬃笠) và áo Thiếp lí (철릭,帖裏), trang phục thoải mái nên mặc trong lúc cưỡi ngựa săn bắn hoặc di giá trong các chuyến đến Lăng tẩm hay Viên tẩm. Giống với Triều phục là trang phục mặt khi xuất cung và hồi cung trong các dịp di giá ra ngoài liên quan đến quân sự.
- Quân phục với áo Hiệp tụ (협수,狹袖) ấy chỉ tay áo nhỏ và mặc thêm một chiến áo dạng bối tử (조끼) mặc trong những lúc di hành đến những nơi xa hay lúc xảy ra chiến sự. Xuất hiện từ thời Tuyên Tổ được dùng chung với Nhung phục và còn gọi là Cụ quân phục (구군복,具軍服).
- Giáp trụ với áo giáp và mũ giáp được mặc trong các nghi lễ quân sự quan trọng, các buổi tế Quan Vũ.
5. Bình thường phục (평상복,平常服): không khác gì với trang phục của các Sĩ đại phu. Trang phục này được mặc khi Đại vương tiên phong trong việc tiết kiệm để cho bách tính noi theo thể hiện giá trị căn bản trong cách trị quốc của các vị Đại vương.
___
Tài liệu tham khảo:
1. Triều Tiên Vương triều thực lục (조선왕조실록,朝鮮王朝實錄).
2. Điển luật thông bổ (전률통보,典律通補).
3. Tổng quan văn hóa Vương thất Triều Tiên tập 8: Thời trang trong cung dưới thời Triều Tiên (조선왕실문화총서8: 조선시대 궁중패션), Park Ga Young, 2017.
4. Ngũ lễ, Nghi lễ quốc gia dưới thời Triều Tiên (조선의 국가의례, 오례), Bảo tàng Cố cung quốc gia, 2015.
✋热门推荐